Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

Thần tích-Thần Sắc làng Tiên Đôi Ngoại xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng - HP

"Dù đi xa thật là xa
Cũng không quên được cây Đa, Giếng làng"
Thần tích - Thần sắc làng Tiên Đôi Ngoại - Xóm Chợ xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng - HP.
(Đoàn Lập - Trích dịch từ Bảo tàng thành phố Hải Phòng)


ĐẠO SẮC ĐÌNH TIÊN ĐÔI NGOẠI
Huyện Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Tiên Đôi Ngoại - xóm Chợ
          Dịch nghĩa:
          1. Sắc chỉ Hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Tiên Đôi xã Ngoại thôn tòng tiền phụng sự "Tích phúc duyên hỷ công chính thuần chính thiên quan chi thần". Tiết kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập nhất niên, chính trị trẫm ngũ tuần đại khánh tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn hứa, y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!
Tự Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.

          2. Sắc"Tứ phúc duyên hỷ công thuần chính, thiên quan chi thần" hướng lai hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp, sắc tặng lưu tự, tứ kim phỉ ưng.
          Cảnh Mệnh miến niệm thần hưu khả gia tặng "Dực bảo trung hưng chi thần" nhưng chuẩn hứa Hải Dương tỉnh, Tiên Lãng huyện, Tiên Đôi xã ngoại thôn, y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Đồng Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.

          3. Sắc Hải Dương tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi xã ngoại thôn phụng sự: "Đương cảnh thành hoàng lai chi thần" nẫm trứ linh ứng, Hướng lai vị hữu dự phong, tứ kim phỉ thừa.
          Cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, trứ phong vi "Dực bảo trung hưng linh phù chi thần". Chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Thành Thái nguyên niên thập nhất nguyệt thập bát nhật.

          4. Sắc chỉ Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Tiên Đôi Ngoại xã, tòng tiền phụng sự "Dực bảo trung hưng, linh phù đống Lang anh linh chi thần, Dực bảo trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng lai tôn chi thần" tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Duy tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm tai!

Duy tân tam niên thập nguyệt, thập nhất nhật.

          5. Sắc Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Ngoại xã tòng tiền phụng sự nguyện tặng: Tính phúc duyên hỷ, công chính thuần chính dực bảo trung hưng, linh phù thiên quan đồng lang tôn thần". Hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng. Tiết mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần dại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia tặng: "Linh phù trung đẳng thần". Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm tai!

Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.

          6. Sắc chỉ Kiến an tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Ngoại xã tòng tiền phụng sự nguyên tặng "Hiển hựu trợ thuận, Dực bảo trung hưng, linh phù đương cảnh thành hoàng Đống Lai tôn thần". Hộ quốc tý dân nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long trật trứ gia tặng "Đôn ngưng tôn thần". Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm tai!

Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.

          II/ Dịch nghĩa:
          1. Ban sắc cho thôn ngoại xã Tiên Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương đã từng thờ ngài "Tích phúc duyên hỷ, công chính thuần chính thiên quan chi thần". Trải các tiết đều được cấp sắc cho phép thờ tự, niên hiệu Tự Đức thứ 31, nhân lễ mừng thọ trẫm 50 tuổi, bèn ban chiếu báu báo ân, lễ có nâng phẩm trật. Cho phép xã nhà tiếp tục thờ tự để nhớ ngày lễ lớn và duy trì điển thờ. Hãy tuân sắc.

Ngày 25 tháng 11 niên hiệu Tự Đức 33 (1880).

          2. Sắc ban cho "Tứ phúc duyên hỷ, công chính thuần chính thiên quan chi thần". Ngài thường cứu nước giúp dân, linh ứng tỏ rõ. Trải các tiết đều được ban cấp sắc cho phép thờ tự tới nay vẫn linh nghiệm.
          Nay nối thừa mệnh lớn, nhớ tới công lao to lớn của thần tăng thêm mỹ tự: "Dực bảo trung hưng chi thần". Cho phép thôn ngoại, xã Tiên Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Dương thờ tự như trước. Mong thần cứu giúp che chở chúng dân của trẫm. Hãy tuân sắc.

Ngày 01 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh 2 (1887).

          3. Sắc ban cho thôn Ngoại xã Tiên Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Dương đã từng thờ ngài "Đương cảnh thành hoàng lai chi thần". Linh ứng nhiều năm mà chưa có sắc.
          Nay nối thừa mệnh lớn, nhớ công ơn to lớn của thần phong mỹ tự là: "Dực bảo trung hưng linh phù chi thần" cho phép thờ tự như trước. thần hãy cứu giúp che chở cho dân của trẫm. Hãy tuân sắc.

Ngày 18 tháng 11 niên hiệu Thành Thái 1 (1889).


BẢN DỊCH THẦN PHẢ ĐÌNH
TIÊN ĐÔI NGOẠI XÃ ĐOÀN LẬP HUYỆN TIÊN LÃNG HẢI PHÒNG

          Thời Trần nhân tông có hai vị đại vương anh hùng. Phả lục do khâm chi bộ thượng đẳng quốc triều lễ bộ trích áo tích nam thiên. Ngay từ đầu dựng nước, lúc nào vận nước cũng được thanh bình. Nước Nam có chủ. Theo số trời phân phong. An Dương Vương làm vua nước Nam. Vua Hùng đã tìm nơi đất tốt để lập kinh đô xây dựng quốc phòng. Tu tạo Miếu điện. Truyền quốc tái thế.
          Thuyết đã truyền cụ Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ ở phủ Động Đình, đã sinh một bọc, một trăm quả trứng được 100 người con trai thì Đô thị hơn thời quán thế đức độ hơn người. Lạc Long quân củng cố đất nước, chia nước thành 15 bộ. Đối ngoại vua lập bình phân trung quốc. Đối với con gái vua bảo Âu Cơ rằng ta là giống rồng, phải có âm dương ngũ hành chi khí. Nhưng các con lại nhiên phương bất đồng, thủy hỏa tương khắc, bất khả đồng cư, nên phải chia con. 50 người theo cha xuống biển làm thủy thần phân trị thủy giang đầu sông góc biển, 50 người theo mẹ lên núi làm sơn thần trông coi các núi, các rừng. Nhưng mỗi khi nghe theo tiếng gọi mà về ứng giúp đỡ lẫn nhâu. Các con đều là cổ chung nguồn gốc, đều là sơn thủy bách thần, thường năng xuất hiện, biến hóa thần cơ, phải luôn âm phù hộ quốc tỷ dân.
          Thời Vua Hùng Vương thứ 18 Duệ vương, tương truyền Vua Hùng kế trị, đến Bạch Hạc, quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Nhà vua cho xây thành đắp lũy, thiết lập hùng tài văn võ.
          Thời Hùng Vương thứ 16 vua Thịnh Vượng, người đã nối ngôi kế thế, nối đời chiều tông. Thế cơ đồ chí thịnh, người vẫn lo nội tu văn miếu, ngoại bị biên cương đốc ý hưng bình, Rỹ An Trung Quốc. Người sinh hạ được 20 hoàng tử 6 công chúa, các hoàng tử đều đô thị hơn người, các công chúa đều tiên phùng tuyệt đẹp. Các con ai cũng có chí hướng lập tích Hùng gia.
          Ý trời dã định nước lân bang trung Quốc có các triều chí tây, đông lưỡng hán ngô, tấn tống tề lương tùy đường, ở các nước Nam có các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, 4 họ nối nhau khai sáng hoàng đồ.
          Đến đời trần nhân Tông làm vua 14 năm người dã thừa trị triều tông, tông bồi kế thế, tương truyền chí thịnh. Nội tu văn đức ngaoij bị biên cương, đốc ý hưng bình Rỹ An trung quốc. Cùng thời điểm này tại trấn Ngọc Nam (Nay gọi là Thanh Hóa) có một nhà họ Công Tính, tên Đào (Công Tính Đào) Húy là Công Tính Vượng, cụ Công Tính Đào lúc đầu cũng được phong tư ấm thế  thừa cụ đã kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Hiền. bà ở phối bản Quận Nhân là con một nhà thi lễ trâm anh thế phiệt bà chuyên làm nghề y thuật, làm việc lành, giúp đỡ mọi người, hai ông bà vui tươi một mối làm ăn, hiền hòa phúc hậu, nhưng hiềm một nỗi tuổi cao, nam tử chưa có nên buồn bã chưa vui, hai ông bà chỉ những ngày đêm nhang đăng cầu khấn phật trời làm việc lành ước mơ có một nam tử, một đêm đến canh hai, bà mơ thấy một cụ già cao to dóng giả, cụ một tay thủ trì một chấp kích, một tay cầm hai qủa Đào, bảo bà Hiền ăn đi, bà ăn liền, thế rồi cụ già hét một tiếng và biến mất, bà liền hoảng hốt tỉnh dậy mới biết mình chiêm bao. Đến sáng bà đem chuyện giấc mơ kể với ông Tính Vượng, ông Vượng nói đó là điềm lành, từ đó bà thấy trong mình dã mang thai đến năm nhâm thìn thập nhất nguyệt sơ thập nhất, sinh hạ nhất bào kiến suất song nam, hai nam thiên tử lĩnh rỵ, kỳ khôi, cụ Công Tính nói, thật là phúc hữu trùng lai, thiên tri cơ ích, thậm cầu ái tri lan dĩ vi huynh, lan sử vi đệ. Bèn mệnh danh nhất viết lang (Công Tính Lang). Nhị viết lai (Công Tính Lai). Hai vợ chồng cụ Công Tính ra sức nuôi dạy hai con. Đến năm 7 tuổi cho nhập học, năm 12 tuổi dã thiên tài, cao bồng lực học, tinh thông văn võ thao lược, có một lần sử một đoạn gậy mà bách phu trí dũng khôn đương.
          Hai ông Lang và Lai đang văn ôn võ luyện thì một sự kiện dau đớn thay. Đó là tại quê nhà hai ông bà Công Tính Vượng dã biến thế, lúc hai ông biết thì than ôi thời đã vãn tang.
          Nói đến nước nhà lúc này tướng Ô Mã Nhi kiêm cả thủy bộ gồm 15 vạn quân tuyên bố mượn đường đi đánh Chiêm Thành "Thanh ngôn hạ đao sát phạt Chiêm Thành" nhưng thực tế tiến đánh xâm lược nước ta. Trước tình hình đó thanh đại trấn biên thư cấp báo vua trần bèn ngự giá công đường, hội họp văn võ bách quan nghị định thư sách đánh giặc, rồi vua Trần ra chiếu sắp lễ "Trâu bò, lợn" thiết lập đàn tràng, cáo lễ thiên địa, khao thưởng ba quân đề binh phá giặc.     Cụ Trần Quốc Tuấn giữ chức tiết chế, kiêm thủy bộ tả hữu đại binh, cụ Trần Quang Khải tướng tiên phong làm tiền đạo tướng quân. Tất cả kết thành kì đội, rầm rập lên đường chống giặc cứu nước.
          Vua lại truyền hịnh trong các châu quận, ai có tài văn thao võ lược, anh hùng hãy ra giúp nước. Hưởng ứng lời kêu goi đó khắp các hương thôn đều rầm rập rãm lai ứng tuyển, trao đổi với tướng nhà Trần xin nhập quân đánh giặc, Lang và Lai hai ông cũng một tiếng Tiên tử báo đền 4 biển, được nhập đầu quân, rồi cùng trạng nguyên ngày ngày yết bảng chiêu binh, kết quả không quá 5 ngày, muôn dân khắp nơi kéo đến chỗ hai ông về tài văn võ và trí dũng hơn người. Hai ông cũng được phong làm chỉ huy quân đội; Lang công được phong: Lai Công vi tả tướng quân, Lai Công được phong: Lang Công vi hữu đại tướng quân.
          Hai ông (Lang và Lai) được lệnh đem quân đi tuần kiệt các đường, lấy trấn quân thanh phòng ngừa bất trắc. Hai ông bái tạ Điện tiền, thủ lĩnh bộ binh mã tuần phòng hai miền đông bắc, chỉ trong 1 ngày hai ông (Lang, Lai) đã đề binh tới miền cổ Hiệu Hồng Châu sau cải thành Dương Tuyền Nam Sách phủ đến Tiên Minh huyện vào trang Tiên Đôi Ngoại, hội họp tướng tốt trù binh tạo thực hai ông lại đi tham quan thị sát, thấy nơi đây (Trong ngoài) trên bến dưới thuyền, có nhiều gò đống, là nơi sơn thủy hữu anh hồi, các gò đống lại ở thế long hổ hoàn bào, thủy tỉnh tiện nghi, một nơi thắng cảnh phong quang, liền tổ chức quân và dân kiến thiết một đồn để tiện đường vãng lai, kỳ giangg thương nghị lúc đầu nhân dân đều cả sợ, làm lên xin khất, hai ông (Lang, Lai) lại hiểu rụ và sắm sửa đặt bầy cơm nước cho mời các phụ lão nhân dân làng trang ngoại đến ăn uống vui vẻ. Thấy vậy dân làng vô cùng mừng rỡ ra sức ủng hộ, thanh niên trai tráng trong làng nô lức rủ nhau tòng quân nhập ngũ. Các phụ lão hăng hái kêu gọi con cháu trẻ già gái trai thi nhau xây đồn đắp lũy, phụ nữ tải lương tiếp tế, các phụ lão còn xin hai ông (Lang, Lai) đồn này bây giờ là nơi trù binh phòng ngự, sau để làm nơi cúng tế. Hai ông nhận lời và để cho nhân dân  khu bản, còn chọn trong bản khu 10 thanh niên cường tráng làm gia thần để trông nom đồn miếu hai ông (Lang, Lai) còn nói với khu các ngươi rất hậu, cùng với anh em ta cũng rất hậu, anh em ta tuy mạnh ức niên về sau, nên các ngươi cố gắng duy trì tình cảm mà phụng sự. Nói xong hai ông liền cho nhân dân bản khu Tiên Đôi Ngoại hoàng kim hai hộp, để về sau trùng tu miếu điện phải sở cập trúc uỷ, sở cập lập uỷ, lời ủy thác đó được dán ở ngoài khu trang ngoại để mọi ngời được rõ, nhân dân và phụ lão rất hoan hỷ và nhận lời chúc phó. Thế rồi hai ông (Lang và Lai ) lại phải tiếp chiếu thư biết tin Nguyên binh đã phạm đến kinh sư. Ngọc hoàng đã rời thành, ngự xuống một thuyền nhỏ lãnh nơi biển động.          Còn quân ta một bộ phận vẫn bám sát giặc, cần thiết phải diệt đồn Vạn Kiếp, tiết chế cùng các vị tướng tốt bàn bạc lập kế hoạch tiến công. Kịp thời hai ông (Lang, Lai) cùng bàn bạc và tiến công ngay đồn vạn kiếp. Quân Nguyên bị đánh bất ngờ nên cả vỡ, thua to bỏ chạy tan tác. Tiết chế lại cho quân ta đóng một đồn tại phả lại để vây hãm các đồn và chặn đường giặc chạy.
          Quân giặc đại bại, đến đường cùng tính đường tháo chạy, biết tình hình giặc rút theo đường thủy, tiết chế cho mở trận đồ trên sông Bạch Đằng đặt cọc hai ông được lệnh vu tam Giang Hải khẩu phục binh, còn Ô Mã Nhi cố thủ một đồn gần kiếp bạc, bị quân ta vây hãm khồn đốn, chúng phải lẻn theo đường hẻm, xuống thuyền chạy ra phía Bạch Đằng tưởng rút được thoát, nào ngờ Ô Mã Nhi vừa tới Bạch Đằng Giang lại bị một thuyền nhỏ của ta chặn ra đánh, chúng tưởng thắng nhưng chúng đã lọt vào trận đồ bãi cọc giữa sông, bỗng pháo hiệu của ta phát hỏa rung trời nở đất, quân ta từ các ngả xông tới tiến công 2 bên bờ bắn vào thuyền giặc như mưa thuyền bè của quân ta từ các điểm mai phục tiến ra vây hãm quân giặc, Ô mã Nhi không còn biết xoay sở ra sao, tàu thuyền của chúng phần thì bị đắm, bị xô vào bãi cọc, đương lúc thời chiều chương dương xuống gấp quân giặc bị chết đuối, bị chém, bị giết, máu chảy thành sông, xác giặc và tàu thuyền đắm chìm xếp thành núi (Huyết khả huyền hành thi như sơn tích). Tướng Ô Mã Nhi bị bắt sống, thế là cuộc chiến quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của ta hoàn toàn đại thắng, quân Nguyên đại bại không còn hi vọng, từ nay bất khả xâm phạm nước ta, nước nhà hoàn toàn giải phóng, không còn một bóng quân thù, cả nước thanh bình, giang sơn thu về một mối.
Sau khi thắng Bạch Đằng, vào mùa xuân trung tuần tháng 3, cả nước vui mừng rộn tiếng âu ca, chào mừng sứ giả ban chiếu vấn an. Nguyên binh đã sớm bình chinh, cả nước phụng chiếu hồi dân. Quân tướng ca khúc khải hoàn, nhà vua mừng vui triển khai Khánh hạ, Gia phong tướng sĩ đẳng cấp có sai. Hai ông (Lang, Lai) cũng được phụng chiếu khải hoàn, kinh sư truyền phương xuất nhập lục đầu giang. Đến trung lưu gặp phải phong ba bão táp ập tới. Hốt nhiên trời đất hối minh, tối tăm mù mịt, ngày tựa như đêm, sấm sét xé trời, mưa to gió lớn, đá bay cát bụi, một dải mây tía từ trời thẳng xuống cuốn mất cả thuyền và hai ông. Theo chiều gió tấp ra mãi biển xanh, lúc ổn lại trời quang mây tạnh, sóng vỗ đều đều, cồn cát nổi lên, rồng, rắn hiện ra, còn hai ông cũng chẳng thấy đâu. Hai ông (Lang, Lai) đã hóa vào ngày 12 tháng 2 năm 1280.

          I/ SẮC NHÀ TRẦN PHONG.
          1. Phong cho Công Tính Lang: Nguyên tự thần hiệu. Nhất phong lang công Đại vương. Tặng phong hùng kiệt, quả quyết, diệu mưu, tá dũng văn võ toàn tài, hoa thắng cảnh, quang thắng toàn, thượng đẳng thần.
          2. Phong cho Công Tính Lai: Nhất phong lai công đại vương. tặng phong đương cảnh thành hoàng linh ứng thanh khiết, hộ quốc tỷ dân. Ngưng hưu trung đẳng thần, rữ quốc đồng hưu Vĩnh Vị Hằng.
          3.Tặng cho Tiên Đôi Ngoại trang;
          Nhị khâm tai(tặng) chuẩn hứa(cho) Tiên Đôi Ngoại trang: Nghinh mỹ tự hồi dân tặng cho lập miếu phụng sự.
          4. Đối với các triều đại kế thế: Khước khuyết tự thử(Từ nay về sau) giai niên tứ linh ứng. Mãi mãi đời đời các bậc đế vương đều phải kế nhau gia phong cho hai mỹ tự (Nhị vị đại vương Lang Và Lai).

          II/ THỜI HẬU LÊ PHONG:
          Thời Lê Thái Tổ (húy là Lê ái Châu) thiệu thiên phủ, Nam sơn vương, khởi nghĩa từ núi Nam Sơn. Tam thiên hổ nữ sào trừ, hồ thị đại đinh ngô nhậm kỳ đảo các chư từ kinh. Nhị vị riệc hựu hưởng ứng, âm phương ấp đắc thiên hạ. Lê Thái Tổ gia phong cho hai ông mỹ tự:
         1. Phong cho ông Công Tính Lang
         Nhất phong rực vân tế thế (Mãi mãi giúp đời) Hiển ứng linh phù Công Tính Lang đại vương.
         2. Nhất phong đương cảnh thành hoàng hiển hựu trợ thuận, Công Tính Lai đại vương.
         3. Sắc cấp cho Tiên Đôi Ngoại khu:
         + Tiên Đôi Ngoại khu trùng tu miếu điện rỹ phụng sự kì hiển hựu tai.
         + Nhất phung khai sinh, hóa các tịch (Sinh con đẻ cái) nhất thiết cấm không được đặt tên con trùng với tên của hai vị đại vương. Chuẩn hứa cho Tiên Đôi Ngoại trang tự chí phụng thờ.
         4. + Ngày sinh: Sơ thập nhất, thập nhất ngoạt (Ngày 10 tháng 11 hàng năm)
             + Chính đảo lễ rụng: Trên chay dưới mặn: Tức là thượng lễ chay.
          - Hạ lễ mặn có: (Kê, suy, xôi, gà, rượu, lợn, trâu, bò...) : (Thiết sinh tư hình)
         - Được mở các trò chơi xướng ca ru hý, khang trù kích nhưỡng.
         - Vui chơi, chọi gà, đấu vật...
         5. Ngày mất: (Ngày hóa).
         Mất ngày: nhập nhị nhật. Sơ nhị ngoạt.
         + Tức ngày 12 tháng hàng năm.
         + Chính đảo:
         - Thượng rung trai bạt.
         - Cấm vui chơi ca hát.

NGƯỜI VIẾT THẦN PHẢ.
        + Hồng phúc nguyên niên, mạnh xuân cát nhật, hần lâm lễ bộ viện đông các đại học sĩ Nguyễn Bính phụng bút.
         + Vĩnh hựu lục niên, trung xuân cát nhật, nội các bộ lại tái tuân cựu thế sao lại.
         + Khải Định thập niên, Ất sửu niên, tháng 3 sao lại.
(Được sao lại 20 tháng 12 năm 2013 - xã Đoàn lập)







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét