Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013
XÃ ĐOÀN LẬP: Thần tích-Thần Sắc làng Tiên Đôi Ngoại xã Đoàn Lập...
XÃ ĐOÀN LẬP: Thần tích-Thần Sắc làng Tiên Đôi Ngoại xã Đoàn Lập...: "Dù đi xa thật là xa Cũng không quên được cây Đa, Giếng làng" Thần tích - Thần sắc làng Tiên Đôi Ngoại - Xóm Chợ xã Đoàn Lập ...
Thần tích-Thần Sắc làng Tiên Đôi Ngoại xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng - HP
"Dù đi xa thật là xa
Cũng không quên được cây Đa, Giếng làng"
Thần tích - Thần sắc làng Tiên Đôi Ngoại - Xóm Chợ xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng - HP.
(Đoàn Lập - Trích dịch từ Bảo tàng thành phố Hải Phòng)
ĐẠO SẮC
ĐÌNH TIÊN ĐÔI NGOẠI
Huyện
Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Tiên Đôi Ngoại - xóm Chợ
Dịch nghĩa:
1.
Sắc chỉ Hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Tiên Đôi xã Ngoại thôn tòng tiền phụng
sự "Tích phúc duyên hỷ công chính thuần chính thiên quan chi thần".
Tiết kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập nhất niên,
chính trị trẫm ngũ tuần đại khánh tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng
trật, đặc chuẩn hứa, y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm
tai!
Tự
Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.
2.
Sắc"Tứ phúc duyên hỷ công thuần chính, thiên quan chi thần" hướng lai
hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp, sắc tặng lưu tự, tứ kim
phỉ ưng.
Cảnh
Mệnh miến niệm thần hưu khả gia tặng "Dực bảo trung hưng chi thần"
nhưng chuẩn hứa Hải Dương tỉnh, Tiên Lãng huyện, Tiên Đôi xã ngoại thôn, y cựu
phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Đồng
Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.
3.
Sắc Hải Dương tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi xã ngoại thôn phụng sự: "Đương
cảnh thành hoàng lai chi thần" nẫm trứ linh ứng, Hướng lai vị hữu dự
phong, tứ kim phỉ thừa.
Cảnh
mệnh, miến niệm thần hưu, trứ phong vi "Dực bảo trung hưng linh phù chi
thần". Chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Thành
Thái nguyên niên thập nhất nguyệt thập bát nhật.
4.
Sắc chỉ Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Tiên Đôi Ngoại xã, tòng tiền phụng sự
"Dực bảo trung hưng, linh phù đống Lang anh linh chi thần, Dực bảo trung
hưng linh phù đương cảnh thành hoàng lai tôn chi thần" tiết kinh ban cấp
sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Duy tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban
bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc
khánh, nhi thân tự điển. Khâm tai!
Duy
tân tam niên thập nguyệt, thập nhất nhật.
5.
Sắc Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Ngoại xã tòng tiền phụng sự nguyện
tặng: Tính phúc duyên hỷ, công chính thuần chính dực bảo trung hưng, linh phù
thiên quan đồng lang tôn thần". Hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng. Tiết
mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần dại
khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia tặng:
"Linh phù trung đẳng thần". Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh,
nhi thân tự điển. Khâm tai!
Khải
Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
6.
Sắc chỉ Kiến an tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Ngoại xã tòng tiền phụng sự
nguyên tặng "Hiển hựu trợ thuận, Dực bảo trung hưng, linh phù đương cảnh
thành hoàng Đống Lai tôn thần". Hộ quốc tý dân nẫm trứ linh ứng, tiết mông
ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần đại khánh
tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long trật trứ gia tặng "Đôn ngưng tôn
thần". Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm
tai!
Khải
Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
II/ Dịch nghĩa:
1.
Ban sắc cho thôn ngoại xã Tiên Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương đã từng thờ
ngài "Tích phúc duyên hỷ, công chính thuần chính thiên quan chi
thần". Trải các tiết đều được cấp sắc cho phép thờ tự, niên hiệu Tự Đức
thứ 31, nhân lễ mừng thọ trẫm 50 tuổi, bèn ban chiếu báu báo ân, lễ có nâng
phẩm trật. Cho phép xã nhà tiếp tục thờ tự để nhớ ngày lễ lớn và duy trì điển
thờ. Hãy tuân sắc.
Ngày
25 tháng 11 niên hiệu Tự Đức 33 (1880).
2.
Sắc ban cho "Tứ phúc duyên hỷ, công chính thuần chính thiên quan chi
thần". Ngài thường cứu nước giúp dân, linh ứng tỏ rõ. Trải các tiết đều
được ban cấp sắc cho phép thờ tự tới nay vẫn linh nghiệm.
Nay
nối thừa mệnh lớn, nhớ tới công lao to lớn của thần tăng thêm mỹ tự: "Dực bảo
trung hưng chi thần". Cho phép thôn ngoại, xã Tiên Đôi huyện Tiên Lãng
tỉnh Hải Dương thờ tự như trước. Mong thần cứu giúp che chở chúng dân của trẫm.
Hãy tuân sắc.
Ngày
01 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh 2 (1887).
3.
Sắc ban cho thôn Ngoại xã Tiên Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Dương đã từng thờ
ngài "Đương cảnh thành hoàng lai chi thần". Linh ứng nhiều năm mà
chưa có sắc.
Nay
nối thừa mệnh lớn, nhớ công ơn to lớn của thần phong mỹ tự là: "Dực bảo
trung hưng linh phù chi thần" cho phép thờ tự như trước. thần hãy cứu giúp
che chở cho dân của trẫm. Hãy tuân sắc.
Ngày
18 tháng 11 niên hiệu Thành Thái 1 (1889).
BẢN DỊCH
THẦN PHẢ ĐÌNH
TIÊN
ĐÔI NGOẠI XÃ ĐOÀN LẬP HUYỆN TIÊN LÃNG HẢI PHÒNG
Thời
Trần nhân tông có hai vị đại vương anh hùng. Phả lục do khâm chi bộ thượng đẳng
quốc triều lễ bộ trích áo tích nam thiên. Ngay từ đầu dựng nước, lúc nào vận nước
cũng được thanh bình. Nước Nam
có chủ. Theo số trời phân phong. An Dương Vương làm vua nước Nam . Vua Hùng đã tìm nơi đất tốt để
lập kinh đô xây dựng quốc phòng. Tu tạo Miếu điện. Truyền quốc tái thế.
Thuyết
đã truyền cụ Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ ở phủ Động Đình, đã sinh một
bọc, một trăm quả trứng được 100 người con trai thì Đô thị hơn thời quán thế
đức độ hơn người. Lạc Long quân củng cố đất nước, chia nước thành 15 bộ. Đối
ngoại vua lập bình phân trung quốc. Đối với con gái vua bảo Âu Cơ rằng ta là
giống rồng, phải có âm dương ngũ hành chi khí. Nhưng các con lại nhiên phương
bất đồng, thủy hỏa tương khắc, bất khả đồng cư, nên phải chia con. 50 người
theo cha xuống biển làm thủy thần phân trị thủy giang đầu sông góc biển, 50
người theo mẹ lên núi làm sơn thần trông coi các núi, các rừng. Nhưng mỗi khi
nghe theo tiếng gọi mà về ứng giúp đỡ lẫn nhâu. Các con đều là cổ chung nguồn
gốc, đều là sơn thủy bách thần, thường năng xuất hiện, biến hóa thần cơ, phải
luôn âm phù hộ quốc tỷ dân.
Thời
Vua Hùng Vương thứ 18 Duệ vương, tương truyền Vua Hùng kế trị, đến Bạch Hạc,
quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Nhà vua cho xây thành đắp lũy,
thiết lập hùng tài văn võ.
Thời
Hùng Vương thứ 16 vua Thịnh Vượng, người đã nối ngôi kế thế, nối đời chiều
tông. Thế cơ đồ chí thịnh, người vẫn lo nội tu văn miếu, ngoại bị biên cương
đốc ý hưng bình, Rỹ An Trung Quốc. Người sinh hạ được 20 hoàng tử 6 công chúa,
các hoàng tử đều đô thị hơn người, các công chúa đều tiên phùng tuyệt đẹp. Các
con ai cũng có chí hướng lập tích Hùng gia.
Ý
trời dã định nước lân bang trung Quốc có các triều chí tây, đông lưỡng hán ngô,
tấn tống tề lương tùy đường, ở các nước Nam có các triều đại Đinh, Lê, Lý,
Trần, 4 họ nối nhau khai sáng hoàng đồ.
Đến
đời trần nhân Tông làm vua 14 năm người dã thừa trị triều tông, tông bồi kế thế,
tương truyền chí thịnh. Nội tu văn đức ngaoij bị biên cương, đốc ý hưng bình Rỹ
An trung quốc. Cùng thời điểm này tại trấn Ngọc Nam (Nay gọi là Thanh Hóa) có
một nhà họ Công Tính, tên Đào (Công Tính Đào) Húy là Công Tính Vượng, cụ Công
Tính Đào lúc đầu cũng được phong tư ấm thế
thừa cụ đã kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Hiền. bà ở phối bản Quận Nhân là
con một nhà thi lễ trâm anh thế phiệt bà chuyên làm nghề y thuật, làm việc
lành, giúp đỡ mọi người, hai ông bà vui tươi một mối làm ăn, hiền hòa phúc hậu,
nhưng hiềm một nỗi tuổi cao, nam tử chưa có nên buồn bã chưa vui, hai ông bà
chỉ những ngày đêm nhang đăng cầu khấn phật trời làm việc lành ước mơ có một
nam tử, một đêm đến canh hai, bà mơ thấy một cụ già cao to dóng giả, cụ một tay
thủ trì một chấp kích, một tay cầm hai qủa Đào, bảo bà Hiền ăn đi, bà ăn liền,
thế rồi cụ già hét một tiếng và biến mất, bà liền hoảng hốt tỉnh dậy mới biết
mình chiêm bao. Đến sáng bà đem chuyện giấc mơ kể với ông Tính Vượng, ông Vượng
nói đó là điềm lành, từ đó bà thấy trong mình dã mang thai đến năm nhâm thìn
thập nhất nguyệt sơ thập nhất, sinh hạ nhất bào kiến suất song nam, hai nam thiên
tử lĩnh rỵ, kỳ khôi, cụ Công Tính nói, thật là phúc hữu trùng lai, thiên tri cơ
ích, thậm cầu ái tri lan dĩ vi huynh, lan sử vi đệ. Bèn mệnh danh nhất viết
lang (Công Tính Lang). Nhị viết lai (Công Tính Lai). Hai vợ chồng cụ Công Tính
ra sức nuôi dạy hai con. Đến năm 7 tuổi cho nhập học, năm 12 tuổi dã thiên tài,
cao bồng lực học, tinh thông văn võ thao lược, có một lần sử một đoạn gậy mà
bách phu trí dũng khôn đương.
Hai
ông Lang và Lai đang văn ôn võ luyện thì một sự kiện dau đớn thay. Đó là tại quê
nhà hai ông bà Công Tính Vượng dã biến thế, lúc hai ông biết thì than ôi thời
đã vãn tang.
Nói
đến nước nhà lúc này tướng Ô Mã Nhi kiêm cả thủy bộ gồm 15 vạn quân tuyên bố
mượn đường đi đánh Chiêm Thành "Thanh ngôn hạ đao sát phạt Chiêm
Thành" nhưng thực tế tiến đánh xâm lược nước ta. Trước tình hình đó thanh
đại trấn biên thư cấp báo vua trần bèn ngự giá công đường, hội họp văn võ bách
quan nghị định thư sách đánh giặc, rồi vua Trần ra chiếu sắp lễ "Trâu bò,
lợn" thiết lập đàn tràng, cáo lễ thiên địa, khao thưởng ba quân đề binh
phá giặc. Cụ Trần Quốc Tuấn giữ chức
tiết chế, kiêm thủy bộ tả hữu đại binh, cụ Trần Quang Khải tướng tiên phong làm
tiền đạo tướng quân. Tất cả kết thành kì đội, rầm rập lên đường chống giặc cứu
nước.
Vua
lại truyền hịnh trong các châu quận, ai có tài văn thao võ lược, anh hùng hãy
ra giúp nước. Hưởng ứng lời kêu goi đó khắp các hương thôn đều rầm rập rãm lai
ứng tuyển, trao đổi với tướng nhà Trần xin nhập quân đánh giặc, Lang và Lai hai
ông cũng một tiếng Tiên tử báo đền 4 biển, được nhập đầu quân, rồi cùng trạng
nguyên ngày ngày yết bảng chiêu binh, kết quả không quá 5 ngày, muôn dân khắp
nơi kéo đến chỗ hai ông về tài văn võ và trí dũng hơn người. Hai ông cũng được
phong làm chỉ huy quân đội; Lang công được phong: Lai Công vi tả tướng quân,
Lai Công được phong: Lang Công vi hữu đại tướng quân.
Hai
ông (Lang và Lai) được lệnh đem quân đi tuần kiệt các đường, lấy trấn quân
thanh phòng ngừa bất trắc. Hai ông bái tạ Điện tiền, thủ lĩnh bộ binh mã tuần
phòng hai miền đông bắc, chỉ trong 1 ngày hai ông (Lang, Lai) đã đề binh tới
miền cổ Hiệu Hồng Châu sau cải thành Dương Tuyền Nam Sách phủ đến Tiên Minh
huyện vào trang Tiên Đôi Ngoại, hội họp tướng tốt trù binh tạo thực hai ông lại
đi tham quan thị sát, thấy nơi đây (Trong ngoài) trên bến dưới thuyền, có nhiều
gò đống, là nơi sơn thủy hữu anh hồi, các gò đống lại ở thế long hổ hoàn bào,
thủy tỉnh tiện nghi, một nơi thắng cảnh phong quang, liền tổ chức quân và dân
kiến thiết một đồn để tiện đường vãng lai, kỳ giangg thương nghị lúc đầu nhân
dân đều cả sợ, làm lên xin khất, hai ông (Lang, Lai) lại hiểu rụ và sắm sửa đặt
bầy cơm nước cho mời các phụ lão nhân dân làng trang ngoại đến ăn uống vui vẻ.
Thấy vậy dân làng vô cùng mừng rỡ ra sức ủng hộ, thanh niên trai tráng trong
làng nô lức rủ nhau tòng quân nhập ngũ. Các phụ lão hăng hái kêu gọi con cháu
trẻ già gái trai thi nhau xây đồn đắp lũy, phụ nữ tải lương tiếp tế, các phụ
lão còn xin hai ông (Lang, Lai) đồn này bây giờ là nơi trù binh phòng ngự, sau
để làm nơi cúng tế. Hai ông nhận lời và để cho nhân dân khu bản, còn chọn trong bản khu 10 thanh niên
cường tráng làm gia thần để trông nom đồn miếu hai ông (Lang, Lai) còn nói với
khu các ngươi rất hậu, cùng với anh em ta cũng rất hậu, anh em ta tuy mạnh ức
niên về sau, nên các ngươi cố gắng duy trì tình cảm mà phụng sự. Nói xong hai
ông liền cho nhân dân bản khu Tiên Đôi Ngoại hoàng kim hai hộp, để về sau trùng
tu miếu điện phải sở cập trúc uỷ, sở cập lập uỷ, lời ủy thác đó được dán ở
ngoài khu trang ngoại để mọi ngời được rõ, nhân dân và phụ lão rất hoan hỷ và
nhận lời chúc phó. Thế rồi hai ông (Lang và Lai ) lại phải tiếp chiếu thư biết
tin Nguyên binh đã phạm đến kinh sư. Ngọc hoàng đã rời thành, ngự xuống một
thuyền nhỏ lãnh nơi biển động. Còn
quân ta một bộ phận vẫn bám sát giặc, cần thiết phải diệt đồn Vạn Kiếp, tiết
chế cùng các vị tướng tốt bàn bạc lập kế hoạch tiến công. Kịp thời hai ông
(Lang, Lai) cùng bàn bạc và tiến công ngay đồn vạn kiếp. Quân Nguyên bị đánh
bất ngờ nên cả vỡ, thua to bỏ chạy tan tác. Tiết chế lại cho quân ta đóng một
đồn tại phả lại để vây hãm các đồn và chặn đường giặc chạy.
Quân
giặc đại bại, đến đường cùng tính đường tháo chạy, biết tình hình giặc rút theo
đường thủy, tiết chế cho mở trận đồ trên sông Bạch Đằng đặt cọc hai ông được
lệnh vu tam Giang Hải khẩu phục binh, còn Ô Mã Nhi cố thủ một đồn gần kiếp bạc,
bị quân ta vây hãm khồn đốn, chúng phải lẻn theo đường hẻm, xuống thuyền chạy
ra phía Bạch Đằng tưởng rút được thoát, nào ngờ Ô Mã Nhi vừa tới Bạch Đằng
Giang lại bị một thuyền nhỏ của ta chặn ra đánh, chúng tưởng thắng nhưng chúng đã
lọt vào trận đồ bãi cọc giữa sông, bỗng pháo hiệu của ta phát hỏa rung trời nở
đất, quân ta từ các ngả xông tới tiến công 2 bên bờ bắn vào thuyền giặc như mưa
thuyền bè của quân ta từ các điểm mai phục tiến ra vây hãm quân giặc, Ô mã Nhi
không còn biết xoay sở ra sao, tàu thuyền của chúng phần thì bị đắm, bị xô vào bãi
cọc, đương lúc thời chiều chương dương xuống gấp quân giặc bị chết đuối, bị
chém, bị giết, máu chảy thành sông, xác giặc và tàu thuyền đắm chìm xếp thành
núi (Huyết khả huyền hành thi như sơn tích). Tướng Ô Mã Nhi bị bắt sống, thế là
cuộc chiến quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của ta hoàn toàn đại thắng, quân
Nguyên đại bại không còn hi vọng, từ nay bất khả xâm phạm nước ta, nước nhà
hoàn toàn giải phóng, không còn một bóng quân thù, cả nước thanh bình, giang
sơn thu về một mối.
Sau khi thắng Bạch Đằng, vào mùa xuân trung tuần
tháng 3, cả nước vui mừng rộn tiếng âu ca, chào mừng sứ giả ban chiếu vấn an.
Nguyên binh đã sớm bình chinh, cả nước phụng chiếu hồi dân. Quân tướng ca khúc
khải hoàn, nhà vua mừng vui triển khai Khánh hạ, Gia phong tướng sĩ đẳng cấp có
sai. Hai ông (Lang, Lai) cũng được phụng chiếu khải hoàn, kinh sư truyền phương
xuất nhập lục đầu giang. Đến trung lưu gặp phải phong ba bão táp ập tới. Hốt
nhiên trời đất hối minh, tối tăm mù mịt, ngày tựa như đêm, sấm sét xé trời, mưa
to gió lớn, đá bay cát bụi, một dải mây tía từ trời thẳng xuống cuốn mất cả
thuyền và hai ông. Theo chiều gió tấp ra mãi biển xanh, lúc ổn lại trời quang
mây tạnh, sóng vỗ đều đều, cồn cát nổi lên, rồng, rắn hiện ra, còn hai ông cũng
chẳng thấy đâu. Hai ông (Lang, Lai) đã hóa vào ngày 12 tháng 2 năm 1280.
I/ SẮC NHÀ TRẦN PHONG.
1.
Phong cho Công Tính Lang: Nguyên tự thần hiệu. Nhất phong lang công Đại vương.
Tặng phong hùng kiệt, quả quyết, diệu mưu, tá dũng văn võ toàn tài, hoa thắng
cảnh, quang thắng toàn, thượng đẳng thần.
2.
Phong cho Công Tính Lai: Nhất phong lai công đại vương. tặng phong đương cảnh
thành hoàng linh ứng thanh khiết, hộ quốc tỷ dân. Ngưng hưu trung đẳng thần, rữ
quốc đồng hưu Vĩnh Vị Hằng.
3.Tặng
cho Tiên Đôi Ngoại trang;
Nhị
khâm tai(tặng) chuẩn hứa(cho) Tiên Đôi Ngoại trang: Nghinh mỹ tự hồi dân tặng
cho lập miếu phụng sự.
4.
Đối với các triều đại kế thế: Khước khuyết tự thử(Từ nay về sau) giai niên tứ
linh ứng. Mãi mãi đời đời các bậc đế vương đều phải kế nhau gia phong cho hai
mỹ tự (Nhị vị đại vương Lang Và Lai).
II/
THỜI HẬU LÊ PHONG:
Thời
Lê Thái Tổ (húy là Lê ái Châu) thiệu thiên phủ, Nam sơn vương, khởi nghĩa từ
núi Nam Sơn. Tam thiên hổ nữ sào trừ, hồ thị đại đinh ngô nhậm kỳ đảo các chư
từ kinh. Nhị vị riệc hựu hưởng ứng, âm phương ấp đắc thiên hạ. Lê Thái Tổ gia
phong cho hai ông mỹ tự:
1.
Phong cho ông Công Tính Lang
Nhất
phong rực vân tế thế (Mãi mãi giúp đời) Hiển ứng linh phù Công Tính Lang đại
vương.
2.
Nhất phong đương cảnh thành hoàng hiển hựu trợ thuận, Công Tính Lai đại vương.
3.
Sắc cấp cho Tiên Đôi Ngoại khu:
+
Tiên Đôi Ngoại khu trùng tu miếu điện rỹ phụng sự kì hiển hựu tai.
+
Nhất phung khai sinh, hóa các tịch (Sinh con đẻ cái) nhất thiết cấm không được
đặt tên con trùng với tên của hai vị đại vương. Chuẩn hứa cho Tiên Đôi Ngoại
trang tự chí phụng thờ.
4. +
Ngày sinh: Sơ thập nhất, thập nhất ngoạt (Ngày 10 tháng 11 hàng năm)
+ Chính đảo lễ rụng: Trên chay dưới mặn: Tức là thượng lễ chay.
- Hạ
lễ mặn có: (Kê, suy, xôi, gà, rượu, lợn, trâu, bò...) : (Thiết sinh tư hình)
-
Được mở các trò chơi xướng ca ru hý, khang trù kích nhưỡng.
- Vui
chơi, chọi gà, đấu vật...
5.
Ngày mất: (Ngày hóa).
Mất ngày: nhập nhị nhật. Sơ nhị ngoạt.
+ Tức
ngày 12 tháng hàng năm.
+
Chính đảo:
-
Thượng rung trai bạt.
- Cấm
vui chơi ca hát.
NGƯỜI
VIẾT THẦN PHẢ.
+
Hồng phúc nguyên niên, mạnh xuân cát nhật, hần lâm lễ bộ viện đông các đại học
sĩ Nguyễn Bính phụng bút.
+
Vĩnh hựu lục niên, trung xuân cát nhật, nội các bộ lại tái tuân cựu thế sao
lại.
+
Khải Định thập niên, Ất sửu niên, tháng 3 sao lại.
(Được sao lại 20 tháng 12 năm 2013 - xã Đoàn lập)
Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013
Huyện Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Tử Đôi - Thần tích thần sắc Đền Long Bì
Huyện
Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Tử Đôi.
"- Long Bì phòng tuyến tiền duyên trận;
- Tử Đôi cố địa hậu linh từ"
(Lụt
lạo thì tháo Cống Đôi - Nhược bằng hạn hán thì bơi Đầm Bì)
Đền
Long Bì
NGỌC PHẢ
ĐẠI VƯƠNG CÔNG THẦN VUA
LÊ ĐẠI HÀNH
THỜI TIỀN LÊ.
(Bản chính ở quốc triều lễ bộ khảm chi bộ tượng
đẳng)
Xét
xưa kia nước Nam
mở vận, phân chia non sông theo cương giới sao chẩn sao Dực, đất Bắc phân phong
sắp đặt bờ cõi theo khu vực sao Đẩu, sao Ngưu. Khoảng đời Hùng vương, Vua Kinh
Dương Vương vâng mệnh phân phong của vua cha, trở thành tiên tổ tông phái của
các bậc đế vương nước Việt. Hoan Châu danh thắng, xây dựng kinh đô; Nghĩa lĩnh
hình cương, sửa sang miếu điện, truyền ngôi tiếp nối, lại xưng lạc Long Quân,
kết duyên cùng tiên nữ Động Đình, sống
trên núi Ngũ Linh, trên đỉnh núi thường có mây ngũ sắc rực rỡ bao phủ. Từ dó bà
Âu Cơ có mang. Đến kỳ sinh nở bà sinh một cái bọc có trăm trứng, nở ra trăm
người con trai khôi ngô tuấn tú, đều là bậc hiền thánh tài cao, đức độ hơn hẳn
người thường. Khi đã trưởng thành, vua cha bèn phong hầu cho trấn giữ các nơi,
phân chia nước thành mười lăm bộ, Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: ta là
giống rồng, nàng là giống tiên, tuy âm dương tương hợp mà sinh con, nhưng vợ
chồng chẳng hợp, thủy hỏa tương khắc, không thể cùng nhau chung sống mãi được.
Thế rồi đành chia năm mươi người con theo cha xuống biển làm thủy thần, cai trị
nơi đầu nguồn góc biển; năm mươi người con theo mẹ lên núi, làm sơn thần, cai
trị chốn đỉnh núi sườn non. Lại hẹn ước với nhau rằng hễ thấy ai có công việc
thì đến giúp đỡ, không được bỏ mặc. Vì thế về sau nhà họ Hùng có trăm vị thần
sơn thủy thường xuyên ứng hiện, biến hóa thần thông, ngầm giúp đất nước, che
chở muôn dân. Nhà nào có phúc sẽ được gặp điềm này.
Lại
nói: Họ Hùng được mười tám đời truyền đến vua Duệ vương, đóng đô ở Bạch Hạc
Viết Trì, tên nước là Văn Lang Kinh đô ở Phong Châu, nhà vua sinh hạ được hai
mươi hoàng nam, đều ham thích thú thần tiên không người nối dõi.
Đến đây nhà Hùng mạt vận, ý trời đã hết.
Mãi
đến khi nước Nam
có bốn họ là: Đinh, Lê, Lý, Trần nối tiếp mở mang giường mối, từ đó nước nhà
mới được lâu dài. Vậy
Lại
nói: Nước Việt xưa vua Đại Hành nhà tiền Lê tên húy là Hoàn nối tiếp cơ nghiệp
nhà Đinh, bên trong tu sửa văn đức bên ngoài phòng bị chốn biên cương. Cho nên
trong nước được thái bình.
Trước
thời gian ấy ở thành Thăng Long (Tên cổ là Long Biên). Họ Đào có người con gái
tên là Nàng Phương tuổi đã đôi mươi, có
dung nhan cá lặn Nhạn sa; có diện mạo như hoa cười nguyệt thẹn, má phấn môi
son, nét thu ba mắt phượng mày ngài, mười phần xuân sắc; dường lương duyên chưa
định ước nơi nào. Một ngày kia ra tắm ở bến sông Nhị Hà, lúc ấy vào khoảng giờ
Thìn thì có một con Thuồng Luồng đến uốn quanh mình, nàng sợ hãi chạy vội về
nhà, từ đó nàng có thai, đến ngày mười lăm tháng hai năm nhâm thìn sinh hạ một con
trai, diện mạo khác thường, hình dung tuấn tú, mày nghiêu, mắt vũ, lưng
thang, lúc sinh có một đám mây sắc tía ở trên nóc nhà ba ngày sau mới tan.
Nàng
nuôi con ngày lại tháng qua, ba tuổi biết nói sớm, hiểu lễ nghĩa, lại biết kính
nhường, nghe người học mà biết, nghe tiếng nói biết xét đoán người nên được yêu
quý, đặt tên là Hải, bẩy tuổi đi học,
chỉ đọc qua một lượt mà đã nhớ; đến khi mười hai tuổi, tư cách khác người, hiểu
thiên văn địa lý, mọi sách vở đều am hiểu, nhiều sĩ tử thời bấy giờ đều thán
phục gọi là Thánh Đồng.
Bà
thân mẫu bèn tìm người để cưới vợ cho, nhưng ngài không ưng thuận mà chỉ ham
thích đọc sách và đi xem xét những nơi núi sông khe ngòi, thành thị thôn quê
đường sá xa gần đều nghi chép cả. Năm ông mười tám tuổi, thân mẫu bị bệnh lâu
ngày, thuốc thang không bớt, lễ bái không khỏi, bà đã mất.
Ngài
than khóc mãi. Bèn chọn nơi đất tốt làm lễ an táng, ở nhà hương khói phụng thờ,
sau ba năm đoạn tang, Ngài đem tâm dạy dân chúng điều hay lẽ phải.
Ngày
ấy nhà vua có chiếu chỉ cho các châu quận tiến cử những người hiền tài đức độ,
văn võ kiêm toàn hoặc giỏi một nghề, biết một việc đều đến dự thi, giao cho
quan tước, thủa ấy ở thành Long Biên bèn cử ông đi thi tuyển, lúc được vào bệ kiến
nhà vua ông ứng đối lưu loát, có tài văn võ học vấn rộng, ai nấy đều khen ngợi,
ông được phong làm Đô chỉ huy sứ, Đại tướng quân. Ông lạy tạ nhà vua nhận quan
tước, từ đó được đội ơn mưa móc của nhà vua và báo đáp với tổ tiên.
Lại
nói: Lúc ấy là khoảng niên hiệu Thái Bình, nhà Tống sai Đại tướng là bọn Hầu
Nhân Bảo và Nhâm Kỳ đem hai mươi vạn quân thủy bộ sang xâm lấn nứơc ta, thế
quân rất lớn, ngoài biên cương đưa thư về cáo cấp nhà vua bèn họp quần thần bàn
mưu kế chống giặc Tống; lại cho lập đàn cáo tế trời đất, khao thưởng tướng sĩ
chia thành cơ ngũ, phong ông làm Tiết chế đại tướng quân, kiểm quản cả quân
thủy bộ, đem quân đi trước tuần ta chặn giữ nơi xung yếu để gây thách thế ba
quân và phòng ngừa mọi việc bất trắc.
Còn
nhà vua tuyển chọn tướng tài thân chinh đi sau tiếp viện, ông bái lĩnh quân
thủy bộ rầm rộ lên đường, nhà vua bèn làm bài thơ "Ngự chế lao
thi" để động viên tướng sĩ;
"Ba quân lẫm liệt đến trùng quan
Muôn
dặm tinh kì muôn dặm yên
Công
tựa hồng mao khinh sự chết
Thờ
vua một dạ chẳng từ nan"
Đường
bộ cờ bay dài vạn dặm, thủy quân chiêng trống tựa sấm động nghìn non.
Một
hôm quân sĩ đến huyện Tiên Minh phủ Nam Sách trấn Hải Dương (tên cổ là Hông
Châu) đóng quân ở nơi huyện sở, hôm sau đến ngôi đền trang Vân Đôi làm
lễ bái yết bốn phương, đi quan sát thấy nơi
đây là chốn phong thủy hữu tình, thế đất rồng chầu hổ phục, núi không cao, nước
không sâu, là một nơi thắng cảnh phong quang vậy.
Ông
bèn truyền ngay lệnh cho dân chúng và quân sỹ dựng ngay một đồn giả để dùng vào
việc chống quân Tống, phụ lão và nhân dân rất lo sợ đều muốn xin làm gia thần,
ông bằng lòng cho chọn lấy những người mạnh khỏe ở trong trang, trọn được hơn
hai mươi người làm gia thần thủy thủ. Ngày hôm sau đã thấy sứ thần mang chiếu
thư đến sai ông đem quân đi đánh giặc. Ông vâng mệnh ra đánh quân Tống, một
trận đầu chúng bị thua to, chém được chánh tướng, bắt được khí giới ngựa xe nhiều
vô kể lại bắt sống được bọn Hầu Nhân Bảo và Triệu Phụng Huân, đem quân khải
hoàn về Kinh Sư, nhà vua cho mở hội lớn mừng công, gia phong cho tướng sỹ,
người người đều được khen thưởng, ban cho ông thực ấp ở trấn Hải Dương, ông lạy
tạ trở về nơi thực ấp ở Hải Dương. Nhân khi thong thả ông trở về chơi nơi sở
đồn cũ ở trang Tử Đôi thăm hỏi dân tình, biết dân được yên vui. Lúc ấy phụ lão,
dân chúng cũng như gia thần ở trang Tử Đôi đều thưa rằng; từ khi ông lập doanh
đồn ở làng chúng dân hình phạt công minh, giảm nhẹ, dân được no đủ, hiểu biết
lễ nghĩa do công đức của ông.
Nhân
đây được xin rằng: Bây giờ là đồn sở sau này được làm nơi thờ cúng, ông bằng
lòng, truyền bày yến tiệc mời phụ lão nhân dân và gia thần cùng dự, lại ban năm
hốt vàng mười, để ngày sau tu bổ nơi thờ cúng; và làm tờ chúc từ để lại. Ông
vừa nói xong bỗng thấy đất trời tối tăm mịt mù mưa to gió lớn lại có một đám
mây sắc tía từ trên trời sa xuống, trông giống chiếc xa giá đến rước đi, vụt
thấy ông cỡi mây bay đến sông Nhị Hà, trong phút chốc trời lại quang đãng,
nhưng sóng trên mặt sông rất là dữ dội, cá, rắn, rùa, thuồng luồng xuất hiện
đón rước ông đi, không biết đi đâu "Ông đã hóa, hôm ấy là ngày mười
lăm tháng mười một" .
Thời
gian ấy nhân dân, gia thần và quân sĩ rất sợ hãi, bèn dâng biểu về triều, nhà
vua bèn sai làm lễ để tế ông và sắc phong làm tôn thần Bạt Hải Long
Vương Đại vương tặng phong duệ trí thiện văn tá tỵ quang hoa thắng toán
hộ quốc bảo dân thượng đẳng thần, chuẩn y
cho trang Tử Đôi rước đệ hiệu nói trên về lập đền thờ.
Lại
nói: từ đó về sau rất là linh ứng nên nhiều đời vua ban sắc gia phong cho đức Đại
vương.
Đến
đời vua Trần Thái Tông, giặc Nguyên sang cướp nước ta. Kinh đô bị vây hãm đức
Trần Quốc Tuấn vâng mệnh vua đi cầu đảo các bách thần ở các Đình miếu đều rất
hiển ứng, được âm phù nên vua Thái Tông bèn bao phong mỹ tự là; Nhất vị
hộ quốc bảo dân linh ứng đại vương.
Vua
Lê Thái Tổ khởi nghĩa binh; binh được tướng Liễu Thăng nhà Minh thu được thiên
hạ, nhà vua phong mỹ tự là; Nhất vị phổ tế cương nghị anh linh đại vương và ban sắc chỉ cho trang Tử Đôi tu sửa Miếu điện
thờ phụng được vẻ vang vậy.
Một
điều phải vâng theo: Ngày thần sinh, ngày thần hóa và xuân thu, các ngày tiệc
đó cùng với chữ húy là Hải đều cấm
dùng.
Chuẩn
y cho trang Tử Đôi thờ phụng thần sinh vào ngày mười lăm tháng hai, chính lệ lễ dùng, ban trên lễ chay, ban dưới có
trâu, lợn, ca hát và các trò chơi khác.
Thần
hóa ngày mười lăm tháng mười một là chính;
Dùng lễ vật như trên, cấm mọi trò ca hát.
Lệ
chính lễ cầu phúc mùa xuân, mùa thu vào mười lăm tháng hai, tháng tám lễ vật
dùng tùy nghi, ngày lành tháng giêng năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) Đông các
đại học sĩ hàn lâm lễ viện thần Nguyễn Bính kính gửi:
Ngày
lành tháng tám năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) nội các thần ở bộ lại kính cẩn sao lại
theo bản cũ.
Người dịch: Nguyễn Thị Trang - Cán bộ viện
nghiên cứu Hán Nôm
{Được sao chép lại ngày 18 thàng 12 năm 2013 - xã
Đoàn lập}
THẦN SẮC
Phiên
âm:
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tử Đôi xã tòng tiền phụng sự nguyên tặng dực bảo
trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng hộ quốc bảo dân Bạt Hải long vương
tôn thần, hộ quốc tý dân nẫm trứ linh ứng tiết mông.
Ban
cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự tứ kim trinh trực Trẫm tứ tuần đại khánh tiết
kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật, trứ gia ..ng hoằng hợp thượng đẳng
thần, đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!
Dịch
nghĩa;
Sắc
Kiến An tỉnh huyện Tiên Lãng, xã Tử Đôi từ trước tới nay được thờ thần được
tặng là Dực bảo trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng Bạt Hải long vương
tôn thần.
Thần
đã có công bảo hộ đất nước, che chở cho dân rất nhiều linh ứng, vào các dịp
khánh tiết, thần từng được ban cấp sắc phong, chuẩn cho dân làng được phép thờ
cúng, đến nay đúng vào dịp lễ lớn mừng Trẫm vừa tròn 10 tuổi từng ban chiếu ban
gia ơn sâu, theo lễ cơ sự tặng thưởng thần xứng đáng được gia tặng làm hoàng
hợp thượng đẳng thần, đặc chuẩn cho nhân dân địa phương phụng thờ để ghi phúc
nước và làm rạng rỡ điển lễ thờ cúng. Kính thay!
Niên hiệu Khải Định thứ 9 tháng 7 ngày 25.
Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013
Ngũ Linh từ đảo Vũ chính Đền "Không thiêng ai gọi là thần, đường ngang ngõ tắt không gần ai đi"
Huyện Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Vân Đôi thần tích - thần sắc
"Lụt lạo thì tháo Cống Đôi - Nhược bằng hạn hán thì bơi Đầm Bì"
"Lụt lạo thì tháo Cống Đôi - Nhược bằng hạn hán thì bơi Đầm Bì"
THẦN TÍCH -
THẦN SẮC LÀNG VÂN ĐÔI
Chép: Tại viện
thông tin khoa học xã hội ở Hà Nội còn lưu trữ một bản kê khai thần tích - Thần
sắc của làng Vân Đôi tổng Tử Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Kiến An (nay là thôn Vân
Đôi xã Đoàn lập huyện Tiên Lãng thành phố Hải Phòng); Mang kí hiệu
TTTS.11515(Có bản chụp Photocoppy theo bản gốc kèm theo).
Thần
tích được chép lại nguyên gốc do TS. Nguyễn Hữu Mùi dịch - Cán bộ nghiên cứu
Viện Hán Nôm, dịch ngày 22 tháng 3 năm 2011.
NGỌC PHẢ
GHI VỀ MỘT
VỊ ĐẠI VƯƠNG
ÂM PHÙ CHO
MỘT VỊ ĐẠI VƯƠNG LÀ CÔNG THẦN
Ở TRIỀU
HÙNG DUỆ VƯƠNG.
(Ngọc phả chi chấn, bộ thượng dẳng thần)
Xưa
nước Nam mở vận ở phương Nam, sông núi phân theo địa phận sao Chẩn, sao Dực, Trung
hoa phân phong thẳng theo địa phận sao Đẩu, sao Ngưu, từ Kinh Dương Vương của
Triều Hùng thừa mệnh vua cha phân phong làm tông chủ đế vương của nước Việt Nam
ta. Ngài thấy Hoan Châu là nơi thắng địa, cho xây dựng Kinh Đô, thấy núi Nghĩa
Lĩnh hình thế tốt, cho trùng tu Miếu, Điện, ngôi vua truyền đến đời thứ hai
xưng Lạc Long Quân. lấy con gái vua ở Hồ Động Đình, định cư ở núi nghĩa Lĩnh,
trên đỉnh núi có mây Ngũ sắc sán lạn, thế là Âu cơ mang thai, Đủ kỳ sinh một
trăm trứng, nở ra điềm tốt một trăm người con trai, đều người anh hùng nổi
tiếng ở đời, đức độ hơn người. Khi trưởng thành vua mới phong hầu, lập phên
giậu, chia trong nước làm 15 bộ, bấy giờ Lạc Long Quân bảo với bà Âu Cơ rằng;
"Ta giống rồng, nàng giống tiên, tuy âm dương ngũ hành hợp lại mà sinh con
nhưng môn loại không cùng, thủy hỏa xung khắc, không thể chung hợp với nhau".
Nhân vì thế mà từ biệt, mới chia 50 người con theo cha về Miền biển làm thủy
thần, chia nhau cai trị các đầu sông góc biển ; 50 người con theo mẹ lên rừng
làm sơn thần, chia nhau cai trị các sườn non. Lại hẹn ước với nhau nếu có sự cố
thì báo nhau đến tương trợ, không được bỏ nhau. Vì vậy trong suốt triều Hùng có
bách thần song núi thường hay ứng hiện, đầu thai vào người nhà làm con để giúp
nước cứu dân, nhà nào có phúc tất sẽ được gặp.
Lại
nói: Đương thời vào thời vua Hùng thứ 18, tương truyền ngôi vua trao cho Duệ Vương
đóng đô ở Bạch Hạc Việt trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang đặt Kinh đô là Phong
Châu. Duệ Vương là người đại lược hùng tài tư chất như thánh triết, thừa hưởng
cơ đồ thịnh trị do tổ tông bồi đắp qua 17 đời, bên trong tu luyện người tài đức,
bên ngoài củng cố biên cương, để chí chấn hưng giúp đất nước thanh bình. Đương
vào thời gian đó, tại đất Vân Sơn huyện Thượng Hiền phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam
hạ, có gia đình họ Đào, tên húy là Phức, vợ là Nguyễn Thị Thuần gia cảnh bần
bách, lấy đánh cá làm nghiệp sống nhưng hay làm việc thiện. Việc thiện dù nhỏ
cũng làm, còn việc ác dù mảy may cũng không làm, nửa điểm hại người không can
dự, một hào lợi lộc chẳng vun vén cho bản thân, nhân dân địa phương thường khen
ngợi gia đình ông là một nhà làm việc thiện, tất sẽ hưởng phúc lớn.
Một
hôm vợ chồng đánh cá ở con sông nhỏ, bắt được hai mươi hốt vàng, ngày ngày sinh
nhai, dần dần trở lên sung túc. Thế là từ nghề đánh cá trở thành một ông nhà
giàu nhưng năm ông họ Đào đã 50 còn bà họ Nguyễn ngoài 40 mà chỉ sinh được mấy
người con gái, còn con trai vẫn hiếm muộn. Nhân vì thế ông không vui, thường
than vãn rằng: "Vàng có chất thành núi, thóc có lấp đầy biển đều xem nhẹ
như cỏ rác, chỉ có con thảo cháu hiền mói quí như vàng ngọc" thế là ông bà
phân phát hết của cải trong nhà giúp nghèo cứu khổ, lại thấy nơi nào có danh
sơn thắng cảnh hoặc có động thiêng, đền thiêng đều bỏ của cải sửa sang và tìm
đến cầu đảo.
Một
hôm, ông bà nghe tin ở phủ Quốc Oai đạo Sơn Tây có chùa Sài Sơn cực kỳ linh
ứng, cầu gì được lấy, nguyện được như ý, liền chuẩn bị một chiếc thuyền cùng
hai người chèo lái, mang đầy đủ lễ vật, tiền hương, theo sòng chảy mà đến cửa
sông Hát, tìm đến núi Sài, thấy nơi đây núi cao chót vót, khí tượng muôn hình,
linh thiêng khôn đoán, thực là nơi cảnh đẹp nhất nước Nam. Đêm hôm ấy ông bà
vào chùa làm lễ cầu đảo, thắp hương khấn rằng: "Thần ở nơi trần thế, tiền
tài như dải mây trôi, chỉ nghĩ đường con cái muộn mằn, những mong trời đất quỉ
thần hiển ứng soi xét mà ban phúc, khiến vợ chồng thần được đội ơn muôn phần
nhờ sự giúp đỡ của trời đất thần linh".
Đêm
hôm ấy vợ chồng ông ngủ trong động, đến cuối canh ba thì mông lung ngủ thiếp
đi, mộng thấy một ông già thân thể dị kì, hình dạng kì quái, tự xưng là quan
Sơn thần, bảo rẳng: "Nhà ngươi là người đức hậu, trời đất đã thấu tỏ, sau
này sẽ có con trai, ắt sẽ toại nguyện, không phải lo lắng gì nữa" nói xong
ông già biến mất. trong chốc nát, vợ chồng ông tỉnh dậy mới biết mình mộng,
nhưng còn bán tín bán nghi. Hôm sau vợ chồng ông làm lễ bái tạ, xuống thuyền
trở về địa phận trang Vân Đôi huyện Tiên Minh phủ Nam Sách trấn Hải Dương, bỗng
thấy trời đất mịt mù gió mưa thổi lên dữ dội, sóng nước dâng lên cuồn cuộn, vợ
chồng kinh sợ chạy lên bờ ẩn trú trong một ngôi Miếu. Một lúc sau bỗng thấy một
dải hào quang từ giữa Miếu bay ra, rồi vây bọc lấy người bà họ Nguyễn, bà họ
Nguyễn kinh sợ, ngã xuống đất nằm mê man tự mộng, mộng thấy người con trai y
mạo chỉnh tề, hình thể đẹp lạ, từ trong Miếu đi ra, tự xưng là quan Sơn thần, bảo
rằng: "Thần phụng mệnh thiên đình xin đầu thai vào bà làm con" người
đó nói xong liền biến mất, bà họ Nguyễn sợ hãi tỉnh dậy mới biết đây là mộng,
liền kể lại với ông. Ông bảo "Đây là điềm lành" vợ chồng ông liền làm
lễ bái tạ, xuống thuyền trở về nhà mình.
Từ đó
bà họ Nguyễn mang thai, đến ngày 12
tháng 11 năm giáp thìn sinh một người con
trai thiên tư đĩnh dị, thể mạo khác thường, ông biết đây là thần nhân xuất thế
nên rất quí con, mới đặt tên là Thượng, năm
lên ba tuổi biết nói, biết lễ nghĩa, năm lên bảy tuổi bắt đầu đi học, thiên tư
cao mại, lực học tinh thông, am tường sử tử, thành thạo võ nghệ, đến năm 22
tuổi than ôi, sự biến khôn lường, họa vô đơn chí, cả cha và mẹ ông Thượng cùng
mất. Ông khóc thảm sầu, thế không làm sao được, đành chọn thế đất quí làm lễ an
táng, đèn nhang thờ phụng tại gia đường theo nghi thức.
Sau
ba năm mãn tang cũng là lúc bộ chủ ai lao, họ thục tên Phán vốn là tông phái
nhà Hùng cai quản ở Ai Lao, đổi thành họ Thục đến lúc này nghe tin từ xa thấy
Duệ Vương hưởng tuổi thọ của trời đã nhiều, 20 hoàng tử đều về tiên bồng tuyệt
tích, không có người kế dõi, sắp nhường ngôi cho con rể là Sơn thánh, liền thừa
thế phất động chiến tranh, cầu viện các nước láng giềng, chỉnh đốn đem 100 vạn
quân tinh nhuệ, 300 ngựa chiến, phân làm 5 đạo, thủy bộ cùng tiến, thanh thế
trong quân rầm rộ, thư từ biên cương báo tin địch sang xâm phạm gửi gấp về
triều, khiến vua rất lo lắng, vua mới triệu Sơn Thánh hỏi kế đánh giặc, Sơn
Thánh tâu rằng "Hơn trăm năm nay vua là bậc thánh hiền, ân trạch của sáu
bẩy đời vua trước thấm vào cốt tủy người dân, còn nay, nước giàu, binh mạnh, uy
đức của bệ hạ lấy lừng hải ngoại, lại có lòng trời giúp đỡ, ban cho nhiều vị
anh tài như ông Thượng, như bách thần sông núi, thường xuất thế giúp nước. Nay
cơ sự như thế thần xin bệ hạ triệu ông Thượng đến rồi trao quan tước, cho ông
mang quân tiến hành tuần tiễu trước tại các đạo để gây thanh thế trong quân mà
đề phòng bất trắc, còn thần tự nguyện thay vua lo phần nặng nhọc, tự chọn tướng
tài, quân thục không quá 10 ngày sẽ bị đánh tan!" Vua nghe xong rất vui
mừng, lập tức cho triệu Thượng đến hỏi kế đánh giặc. Vua thấy ông trả lời trôi
chẩy, cho thi văn võ cũng thấy tài. Vua cho đây là người giỏi nhất trong nước,
lập tức phong cho ông chức Điện tiền đô chỉ huy sứ Đại tướng quân, mang quân
tiến hành tuần phòng trước ở hai lộ Đông và Bắc. Bấy giờ ông bái tạ vua nhận
quan tước, lĩnh quân thủy bộ đường hoàng mà tiến.
Một
hôm, ông cho quân tiến đến trang Vân Đôi huyện Tiên Minh phủ Nam Sách trấn Hải
Dương thì cho hội họp quân nghỉ lại một ngôi Miếu. Đến đầu canh hai đêm hôm ấy
ông thấy một ông già từ trong miếu đi ra bảo rằng "Thần vâng chiếu của
triều đình làm thần bản cảnh, vị hiệu của thần là Hiển Liệt, ngự trị tại miếu, nay biết tin tướng quân cầm quân
đánh giặc đến địa phận nơi này nên thần muốn đến yết kiến, xin âm phù cho ngài
đánh giặc lập công, về sau hiển vị thì cùng được tế tự". Ông già nói xong liền biến mất.
Hôm
sau ông triệu phụ lão trong trang đến hỏi nguyên cớ cho được tường tận. Phụ lão
mới tâu rằng "Trong trang từ trước đến nay phụng thờ một vị thượng đẳng thần,
vốn rất linh ứng nhưng trước đây 20 năm có đôi vợ chồng đến trú ở miếu này thì
từ đó đến nay không thấy linh nghiệm nữa". Ông cười rồi bảo, "đó
chính là cha mẹ ta nên ta mang quân đến trú nơi đây".
Đương
lúc bấy giờ nhân dân trong trang đang rất sợ hãi, mới làm lễ xin làm thần tử
cho ông, ông bảo "Sau khi ta trăm tuổi, trang các ngươi là nơi có hậu, ta
coi đó làm trọng nên ta di mệnh mãi mãi về sau trang nơi này phụng thờ ta".
Ông truyền quân sĩ thiết yến tiệc, mời nhân dân gia thần trong trang đến ăn
uống. Trong lúc hưởng yến bỗng thấy sứ giả mang chiếu thư đến sai ông mang quân
đi đánh giặc, ngay lập tức ông phụng mệnh theo chiếu thư, lựa chọn hơn 20 người
cường tráng trong trang làm gia thần tôi tớ, cho quân tiến thẳng đến đồn giặc ở
núi Sóc đạo Kinh Bắc. Khi đến nơi ông hội họp quân sĩ dưới chân núi bàn kế sách
tiến công quân thục. Bỗng thấy quân Thục trùng trùng lớp lớp kéo đến, bốn mặt vang
tiếng quân địch hò reo. Quân của ông chưa kịp mặc áo giáp, chưa kịp đóng yên
ngựa, lập tức đánh để giải vây. Triều đình không biết tin nên không cho quân
đến cứu viện. Ông ôm đầu ngẩng lên trời ngầm khấn rằng. "Ta là tướng quân
mà chết ở đây chăng? Mong lòng trời hãy tương trợ âm phù giúp ta đánh
giặc" trong chốc lát, trời đất tối tăm, gió mưa ào ào, quân Thục đại bại,
chém được chính tướng của địch, tịch thu lương thực và ngựa của chúng nhiều vô
số.
Từ đó
thiên hạ thanh bình, vua ban chiếu triệu hồi, ông phụng mệnh cho quân trở về
triều, mở yến tiệc ăn mừng thắng trận, gia phong cho tướng sĩ theo thứ tự công
lao khác nhau. Ông phụng mệnh theo chiếu trở về đến miếu của trang Vân Đôi, mở
yến tiệc khao quân sĩ nhân dân và gia thần, bảo với phụ lão nhân dân rằng;
"Ta phá được quân Thục là do lòng trời giúp đỡ, thần linh phù trợ, ta từ
đây được hiển danh". Phàm việc tế tự thì cung thỉnh vị thần Bản Cảnh với
thần hiệu như thế để phối hưởng với ta. Ta ban cho dân 5 hốt vàng để về sau tu
sửa đồ tế khí". Nói xong, bỗng trời đất tối đen, mây mù nổi lên bốn phía,
thấy một dải mây vàng như hình dải lụa từ trời giáng thẳng xuống trước miếu.
Ông theo dải mây vàng bay lên không trung, nhập vào núi Sài, không thấy ông đâu, tức ông đã hóa (Hôm
ấy là ngày 15 tháng 5). Đương lúc ấy nhân dân
và quân sĩ ai cũng hoảng sợ, mới làm lễ dâng biểu lên triều. Vua biết tin, sai
bề tôi trở về làm lễ. Lễ xong sai sứ mang sắc phong ban tặng cho ông là Thượng
đẳng thần tôn thần, tặng phong cho vị bản cảnh
mỹ tự là Trung Túc Anh Nghị Trí Minh Hiển Liệt Ngưng hưu Trung đẳng thần. Cùng đất nước hưởng niềm vui, giữ làm thường lệ,
chuẩn cho trang Vân Đôi rước mỹ tự trở về trong dân, tu sửa Miếu Vũ, lấy làm
nơi thờ tự.
Lại
nói, từ đó về sau đều thấy linh ứng hiển hiện, do vậy trải các đời đế vương
thường ban sắc, gia phong mỹ tự cho hai vị Đại vương.
Trải
đến đời Trần Thái Tông, giặc Nguyên sang xâm lược nước ta, kinh thành bị chúng
vây hãm, Trần Quốc Tuấn phụng mệnh Vua đi cầu đảo bách thần ở các ngôi Đền
thiêng, khi đến ngôi đền thờ hai vị cũng thấy hiển ứng linh phù, nên ông được
phong là Chiêu Dụ Đại vương, còn vị Bản
cảnh được phong là Khoan hoằng Uy liệt Hiển hựu Trợ thuận Đại vương.
Đến
thời Lê Thái tổ khởi nghĩa đánh Liễu Thăng nhà Minh, khi thu phục được đất
nước, vua gia phong mĩ tự cho hai vị là Phổ tế Cương nghị Anh linh Đại
vương. Ban sắc cho trang Vân Đôi tu sửa Miếu
điện để phụng thờ hai vị. tốt đẹp thay!
Phụng
khai sinh ngày, ngày hóa, các tiệc, tên húy phải cấm sẽ kê dưới đây.
Ngày
sinh thần: 12 tháng 11, lấy làm lệ chính, lễ
dùng trên có mâm chay, dưới có Lợn đen, xôi, rượu, bánh dầy, mở các trò đánh cờ
đấu vật.
Ngày
hóa của thần: 15 tháng 5, lấy làm lệ chính. Lễ
vật dùng như ngày sinh của thần. Cấm không ca hát.
Tên
húy phải cấm, gồm chữ Thượng, Chuẩn cho trang Vân Đôi phụng thờ.
Ngày
tốt tháng 1 niên Hồng Phúc thứ nhất (1572). Hàn lâm viện đông các đại học sĩ,
bề tôi là Nguyễn Bính phụng mệnh soạn bản chính.
Ngày
tốt tháng 8 niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740) triều Lê. Nội các bộ lại tuân mệnh
sao lại theo bản chính.
Ngày
13 tháng 12 niên hiệu Khải Định tứ 8 (1923) triều Nguyễn, sao lại theo bản cũ. Do bản cũ lưu tại Đền Hùng Vương ở xã Cổ
Tích tỉnh Phú Thọ.
2. THẦN
SẮC.
"(Trong
phần thần sắc do lLý trưởng Phạm Văn Yêm sao dưới đây ghi 11 đạo nhưng có 2 đạo
trùng nhau {Trùng về câu chữ, trùng cả về niên đại} nên chỉ còn 10 đạo. Trong
10 đạo này thì đạo sắc thứ 2 bị mất một số chữ. Trong dịch bản, chúng tôi sắp
xếp 10 dạo thần sắc theo trật tự niên đại )".
Đạo sắc thứ
nhất
Phiên âm:
Sắc
Kinh Sơn Linh ứng đại vương: Hộ quốc tí dân, nẫm trứ công đức, kinh hữu lịch
triều tặng phong. Phụng ngã thế tổ cao hoàng đế đại trấn anh uy, khai thác
cương thổ. tứ kim phi ưng cảnh mệnh, quang thiệu hồng đồ, diến niệm thần hưu,
hạp long ân điển, khả gia tặng tĩnh trấn chi thần, chuẩn hứa Tiên Minh huyện
Vân Đôi xã y cựu phụng sự. Thần kì tương hữu bảo ngã lê dân. Cố sắc!
Minh mệnh nhị niên thất nguyệt nhị thập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho vị thần [mỹ tự] Kinh sơn Linh ứng Đại vương: Ngài phù giúp nước, che chở dân, công đức tỏ rõ,
trải các triều được ban tặng sắc phong. Ngài phù giúp cho Thế Tổ Cao Hoàng đế
ta (Vua Gia Long), tạo uy danh trấn động , mở mang bờ cõi. Nay trẫm nối mệnh
lớn, nối giữ cơ đồ vẻ vang, nghĩ đến công lao của ngài, mở rộng ân huệ tốt,
xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn chi thần, chuẩn cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh
phụng thờ như cũ. Ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày 21 tháng 7 niên hiệu Minh mệnh thứ 2 (1821)
Đạo
sắc thứ 2
Phiên âm.
Sắc Tĩnh
trấn chi thần: Hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc
phụng sự, Minh mệnh nhị thập nhất niên, ngã (...) bảo chiếu, đàm ân, lễ long đăng
trật. Tư kinh phi ưng cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, khả gia tặng tĩnh trấn
trinh ninh chi thần. Nhưng chuẩn hứa Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu phụng sự.
Thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Thiệu trị tứ niên lục nguyệt nhị thập nhị nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho vị thần, mĩ tự là tĩnh trấn; Ngài phù giúp nước, che chở dân linh ứng
tỏ rõ, trải các tiết được ban tặng sắc phong phụng thờ. Năm Minh Mệnh thứ
21(1840), nhân lúc thánh tổ ta (Vua Minh Mệnh) hưởng thọ tuổi ngũ tuần bèn ban
chiếu báu , mở rộng ân huệ, làm lễ đăng trật, nay trẫm nối theo mệnh lớn, nghĩ
đến công lao của ngài, xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh chi thần,
chuẩn cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh phụng thờ như cũ. Ngài hãy che chở cho dân
của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
ngày 22 tháng 6 niên hiệu thiệu trị thứ 4 (1844).
Đạo
sắc thứ 3
Phiên
âm:
Sắc Tĩnh
trấn trinh ninh kinh sơn linh ứng chi thần: Hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng,
tiết mông ban cấp tặng sắc, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, diến
niệm thần hưu, khả gia tặng tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu chi thần. Nhưng
chuẩn hứa Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã
lê dân. Khâm tai!.
Thiệu trị tứ niên thất nguyệt nhị nhập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Ban
sắc cho vị thần, (Mỹ tự) là Tĩnh trấn trinh ninh Kinh sơn linh ứng: Ngài phù
giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ, trải các tiết được ban cấp tặng sắc,
chuẩn cho thờ phụng. Ngay trẫm nối theo mệnh lớn, nghĩ đến công lao của ngài,
xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh Quảng hậu chi thần. Chuẩn cho xã Vân
Đôi huyện Tiên Minh phụng thờ như cũ, ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày 22 tháng 7 niên hiệu thiệu trị thứ 4 (1844).
Đạo
sắc thứ 4
Phiên
âm;
Sắc
Kinh Sơn linh ứng chi thần, nguyên tặng tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu chi
thần: Hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc, chuẩn hứa phụng
sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, khả gia tặng tĩnh trấn trinh
ninh quảng hậu tú ngưng chi thần. Nhưng chuẩn Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu
phụng sự. Thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Tự Đức tam niên thập nhất nguyệt thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa;
Sắc
ban cho vị thần (Mỹ tự) là Kinh Sơn linh ứng, vốn được ban tặng là Tĩnh trấn
trinh ninh Quảng hậu chi thần: Ngài phù giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ,
trải các tiết được ban cấp tặng sắc, chuẩn cho thờ cúng. Nay trẫm nối mệnh lớn,
nghĩ đến công lao của ngài, xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh Quảng
hậu tú ngưng chi thần. Chuẩn cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh phụng thờ như cũ.
Ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày 15 tháng 11 niên hiệu Tự Đức thứ 3 (1850).
Đạo
sắc thứ 5:
Phiên âm:
Sắc
chỉ Hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Vân
Đôi xã tòng tiền phụng sự Tĩnh trấn Trinh ninh Quảng hậu tú ngưng Kinh Sơn Linh
ứng chi thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập
nhất niên, chính trị tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu, đàm ân, lễ
long đăng trật, đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự
điển. Khâm tai!.
Tự Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thaaph
tứ nhật.
Dich
nghĩa;
Sắc
ban cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương từ trước đến nay phụng thờ vị
thần (Mỹ tự) là Tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu tú ngưng kinh Sơn Linh ứng. Trải
các tiết được ban sắc phong, chuẩn cho thờ cúng năm Tự Đức thứ 31(1878), nhân
lúc trẫm làm lễ mừng thọ hưởng tuổi tứ tuần, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân huệ,
làm lễ đăng trật, đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà
kéo dài việc thờ ngài. Vậy nay ban sắc!
Ngày 24 tháng 11 niện hiệu Tự Đức thứ 33 (1880).
Đạo
sắc thứ 6;
Phiên âm;
Sắc
tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu tú ngưng kinh sơn ninh ứng chi thần, hướng lai
hộ quốc: tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc lưu tự, tứ kinh phi
ưng cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, khả gia tặng Dực bảo trung hưng chi thần.
Nhưng chuẩn hứa hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu phụng sự. Thần
kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!.
Đồng Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho vị thần(Mỹ tự) là Tĩnh trấn trinh ninh Quảng hậu tú ngưng Kinh Sơn linh
ứng. Từ trước đến nay Ngài phù giúp nước, che chở dân, linh ứng hiển hiện, trải
các tiết được ban cấp tặng sắc lưu thờ. Nay Trẫm nối theo mệnh lớn, nghĩ đến
công lao của ngài, xứng đáng gia tặng là Dực bảo trung hưng chi thần, chuẩn cho
xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương phụng thờ như cũ, ngài hãy che chở
cho dân của trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày mồng 1 tháng 7 niên hiệu đồngkhánh thứ 2 (1887)
Đạo
sắc thứ 7.
Phiên âm:
Sắc
chỉ Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Tử Đôi Tổng Vân Đôi xã tòng tiền phụng sự Dực
bảo trung hưng linh phù Chiêu dụ chi thần; Trấn tĩnh trinh ninh Quảng hậu tú
ngưng Dực bảo trung hưng Kinh Sơn ninh ứng chi thần. Tiết kinh ban cấp sắc
phong, chuẩn kỳ phụng sự, Duy tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban bảo
chiếu, đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh
nhi thân tự điển. Khâm tai!
Duy tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho xã Vân Đôi tổng Tử Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến An trước đây phụng thờ
vị thần (Mỹ tự) là Dực bảo trung hưng Linh phù chiêu dụ; cùng vị thần (Mỹ tự)
là trấn tĩnh trinh ninh Quảng hậu tú ngưng Dực bảo trung hưng Kinh Sơn linh ứng
(Hợp phong hai vị thần trong một đạo sắc). Trải các tiết được ban cấp sắc
phong, chuẩn cho thờ cúng. Năm Duy tân thứ nhất (1907), nhân đại lễ lên ngôi
của trẫm, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân huệ, làm lễ đăng trật, đặc chuẩn cho
phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà kéo dài việc thờ thần. Vậy nay
ban sắc!
Ngày 11 tháng 8 niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909).
Đạo
sắc thứ 8.
Phiên âm:
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã phụng sự Đương Cảnh thành hoàng Anh
nghị chi thần; Hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị mông ban cấp sắc
văn. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, trứ phong vi đôn ngưng Dực
bảo trung hưng chi thần. Đặc chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê
dân. Khâm tai!
Duy tân ngũ niên nhuận lục nguyệt thập bát nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban chi xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến An phụng thờ vị thần là đương cảnh
thần hoàng (Mỹ tự) là anh nghị. Ngài giúp nước che chở dân linh ứng tỏ rõ,
nhưng từ trước đến nay chưa được đôi ơn ban cấp sắc phong. Nay trẫm nối mệnh
lớn, nghĩ đến công lao của ngài, gia phong là Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng chi
thần. Đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ, ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy
ban sắc!
Ngày mồng 1 tháng 6 nhuận niên hiệu Duy Tân thứ 5
(1911).
Đạo
sắc thứ 9.
Phiên
âm;
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã tòng tiền phụng sự, nguyên tặng Đôn
ngưng Dực bảo trung hưng Đương cảnh thành hoàng Trung túc Anh nghị Trí Minh tôn thần: Hộ quốc, tý dân, Nẫm trứ linh
ứng, tiết mông ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị Trẫm tứ
tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu, đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia
tặng tĩnh hậu đẳng trung thần. Đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân
tự điển. Khâm tai!
Khải định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Dịch
nghĩa;
Sắc
ban cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến an từ trước đến nay phụng thờ vị
thần, vốn được phong tặng là Đôn ngưng Dực bảo trung hưng Đương cảnh thành
hoàng Trung túc Anh nghị Trí minh Tôn Thần: Ngài phù giúp nước, che chở dân,
linh ứng tỏ rõ, trải các tiết được ban cấp sắc phong, chuẩn cho thờ cúng. Nay
trẫm gặp lúc làm lễ mừng thọ hưởng tuổi tứ tuần, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân
huệ, làm lễ đăng trật, gia tặng là Tĩnh hậu trung đẳng thần, đặc chuẩn cho
phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà kéo dài việc thờ ngài. Vậy nay
ban sắc!
Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924)
Đạo
sắc thứ 10.
Phiên âm;
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã tòng tiền phụng sự, nguyên tặng Tĩnh
trấn trinh ning Quảng hậu Tú ngưng Dực bảo trung hưng Kinh Sơn linh ứng cương
công chiêu dụ tôn thần; Hộ quốc, tý dân, Nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp
sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh tiết,
kinh ban bảo chiếu, đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia tặng tủng bạt trung đẳng
thần, đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!
Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Dịch
nghĩa:
Ban
sắc cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến An từ trước đến nay phụng thờ vị
thần, vốn được phong tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh quảng hậu tú Ngưng Dực bảo
trung hưng Kinh sơn linh ứng cương công chiêu dụ tôn thần; Ngài phù giúp nước
che chở dân, linh ứng tỏ rõ, trải các tiết được ban cấp sắc phong, chuẩn cho
thờ cúng. Nay Trẫm gặp lúc làm lễ mừng thọ hưởng tuổi tứ tuần, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân huệ,
làm lễ đăng trật, gia tặng là tủng bạt Trung đẳng thần, đặc chuẩn cho thờ phụng
như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà kéo dài việc thờ ngài. Vậy nay ban sắc.
Ngày 25 tháng 7 niên hiệu khải Định thứ 9 (1924).
Ngày 18 tháng 5 niên hiệu Bảo Đại thứ 13 (1938).
Xã
Vân Đôi phụng mệnh sao sắc phong.
Lý
trưởng Phạm Văn Yêm (Đóng dấu).
Được TS
Nguyễn Hữu Mùi - Cán bộ Nghiên cứu Viện Hán Nôm dịch, ngày 22 tháng 3 năm 2011.
Bản
dịch được chép lại, ngày 16 tháng 12 năm 2013 tại xã Đoàn Lập.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)