Huyện
Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Tử Đôi.
"- Long Bì phòng tuyến tiền duyên trận;
- Tử Đôi cố địa hậu linh từ"
(Lụt
lạo thì tháo Cống Đôi - Nhược bằng hạn hán thì bơi Đầm Bì)
Đền
Long Bì
NGỌC PHẢ
ĐẠI VƯƠNG CÔNG THẦN VUA
LÊ ĐẠI HÀNH
THỜI TIỀN LÊ.
(Bản chính ở quốc triều lễ bộ khảm chi bộ tượng
đẳng)
Xét
xưa kia nước Nam
mở vận, phân chia non sông theo cương giới sao chẩn sao Dực, đất Bắc phân phong
sắp đặt bờ cõi theo khu vực sao Đẩu, sao Ngưu. Khoảng đời Hùng vương, Vua Kinh
Dương Vương vâng mệnh phân phong của vua cha, trở thành tiên tổ tông phái của
các bậc đế vương nước Việt. Hoan Châu danh thắng, xây dựng kinh đô; Nghĩa lĩnh
hình cương, sửa sang miếu điện, truyền ngôi tiếp nối, lại xưng lạc Long Quân,
kết duyên cùng tiên nữ Động Đình, sống
trên núi Ngũ Linh, trên đỉnh núi thường có mây ngũ sắc rực rỡ bao phủ. Từ dó bà
Âu Cơ có mang. Đến kỳ sinh nở bà sinh một cái bọc có trăm trứng, nở ra trăm
người con trai khôi ngô tuấn tú, đều là bậc hiền thánh tài cao, đức độ hơn hẳn
người thường. Khi đã trưởng thành, vua cha bèn phong hầu cho trấn giữ các nơi,
phân chia nước thành mười lăm bộ, Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: ta là
giống rồng, nàng là giống tiên, tuy âm dương tương hợp mà sinh con, nhưng vợ
chồng chẳng hợp, thủy hỏa tương khắc, không thể cùng nhau chung sống mãi được.
Thế rồi đành chia năm mươi người con theo cha xuống biển làm thủy thần, cai trị
nơi đầu nguồn góc biển; năm mươi người con theo mẹ lên núi, làm sơn thần, cai
trị chốn đỉnh núi sườn non. Lại hẹn ước với nhau rằng hễ thấy ai có công việc
thì đến giúp đỡ, không được bỏ mặc. Vì thế về sau nhà họ Hùng có trăm vị thần
sơn thủy thường xuyên ứng hiện, biến hóa thần thông, ngầm giúp đất nước, che
chở muôn dân. Nhà nào có phúc sẽ được gặp điềm này.
Lại
nói: Họ Hùng được mười tám đời truyền đến vua Duệ vương, đóng đô ở Bạch Hạc
Viết Trì, tên nước là Văn Lang Kinh đô ở Phong Châu, nhà vua sinh hạ được hai
mươi hoàng nam, đều ham thích thú thần tiên không người nối dõi.
Đến đây nhà Hùng mạt vận, ý trời đã hết.
Mãi
đến khi nước Nam
có bốn họ là: Đinh, Lê, Lý, Trần nối tiếp mở mang giường mối, từ đó nước nhà
mới được lâu dài. Vậy
Lại
nói: Nước Việt xưa vua Đại Hành nhà tiền Lê tên húy là Hoàn nối tiếp cơ nghiệp
nhà Đinh, bên trong tu sửa văn đức bên ngoài phòng bị chốn biên cương. Cho nên
trong nước được thái bình.
Trước
thời gian ấy ở thành Thăng Long (Tên cổ là Long Biên). Họ Đào có người con gái
tên là Nàng Phương tuổi đã đôi mươi, có
dung nhan cá lặn Nhạn sa; có diện mạo như hoa cười nguyệt thẹn, má phấn môi
son, nét thu ba mắt phượng mày ngài, mười phần xuân sắc; dường lương duyên chưa
định ước nơi nào. Một ngày kia ra tắm ở bến sông Nhị Hà, lúc ấy vào khoảng giờ
Thìn thì có một con Thuồng Luồng đến uốn quanh mình, nàng sợ hãi chạy vội về
nhà, từ đó nàng có thai, đến ngày mười lăm tháng hai năm nhâm thìn sinh hạ một con
trai, diện mạo khác thường, hình dung tuấn tú, mày nghiêu, mắt vũ, lưng
thang, lúc sinh có một đám mây sắc tía ở trên nóc nhà ba ngày sau mới tan.
Nàng
nuôi con ngày lại tháng qua, ba tuổi biết nói sớm, hiểu lễ nghĩa, lại biết kính
nhường, nghe người học mà biết, nghe tiếng nói biết xét đoán người nên được yêu
quý, đặt tên là Hải, bẩy tuổi đi học,
chỉ đọc qua một lượt mà đã nhớ; đến khi mười hai tuổi, tư cách khác người, hiểu
thiên văn địa lý, mọi sách vở đều am hiểu, nhiều sĩ tử thời bấy giờ đều thán
phục gọi là Thánh Đồng.
Bà
thân mẫu bèn tìm người để cưới vợ cho, nhưng ngài không ưng thuận mà chỉ ham
thích đọc sách và đi xem xét những nơi núi sông khe ngòi, thành thị thôn quê
đường sá xa gần đều nghi chép cả. Năm ông mười tám tuổi, thân mẫu bị bệnh lâu
ngày, thuốc thang không bớt, lễ bái không khỏi, bà đã mất.
Ngài
than khóc mãi. Bèn chọn nơi đất tốt làm lễ an táng, ở nhà hương khói phụng thờ,
sau ba năm đoạn tang, Ngài đem tâm dạy dân chúng điều hay lẽ phải.
Ngày
ấy nhà vua có chiếu chỉ cho các châu quận tiến cử những người hiền tài đức độ,
văn võ kiêm toàn hoặc giỏi một nghề, biết một việc đều đến dự thi, giao cho
quan tước, thủa ấy ở thành Long Biên bèn cử ông đi thi tuyển, lúc được vào bệ kiến
nhà vua ông ứng đối lưu loát, có tài văn võ học vấn rộng, ai nấy đều khen ngợi,
ông được phong làm Đô chỉ huy sứ, Đại tướng quân. Ông lạy tạ nhà vua nhận quan
tước, từ đó được đội ơn mưa móc của nhà vua và báo đáp với tổ tiên.
Lại
nói: Lúc ấy là khoảng niên hiệu Thái Bình, nhà Tống sai Đại tướng là bọn Hầu
Nhân Bảo và Nhâm Kỳ đem hai mươi vạn quân thủy bộ sang xâm lấn nứơc ta, thế
quân rất lớn, ngoài biên cương đưa thư về cáo cấp nhà vua bèn họp quần thần bàn
mưu kế chống giặc Tống; lại cho lập đàn cáo tế trời đất, khao thưởng tướng sĩ
chia thành cơ ngũ, phong ông làm Tiết chế đại tướng quân, kiểm quản cả quân
thủy bộ, đem quân đi trước tuần ta chặn giữ nơi xung yếu để gây thách thế ba
quân và phòng ngừa mọi việc bất trắc.
Còn
nhà vua tuyển chọn tướng tài thân chinh đi sau tiếp viện, ông bái lĩnh quân
thủy bộ rầm rộ lên đường, nhà vua bèn làm bài thơ "Ngự chế lao
thi" để động viên tướng sĩ;
"Ba quân lẫm liệt đến trùng quan
Muôn
dặm tinh kì muôn dặm yên
Công
tựa hồng mao khinh sự chết
Thờ
vua một dạ chẳng từ nan"
Đường
bộ cờ bay dài vạn dặm, thủy quân chiêng trống tựa sấm động nghìn non.
Một
hôm quân sĩ đến huyện Tiên Minh phủ Nam Sách trấn Hải Dương (tên cổ là Hông
Châu) đóng quân ở nơi huyện sở, hôm sau đến ngôi đền trang Vân Đôi làm
lễ bái yết bốn phương, đi quan sát thấy nơi
đây là chốn phong thủy hữu tình, thế đất rồng chầu hổ phục, núi không cao, nước
không sâu, là một nơi thắng cảnh phong quang vậy.
Ông
bèn truyền ngay lệnh cho dân chúng và quân sỹ dựng ngay một đồn giả để dùng vào
việc chống quân Tống, phụ lão và nhân dân rất lo sợ đều muốn xin làm gia thần,
ông bằng lòng cho chọn lấy những người mạnh khỏe ở trong trang, trọn được hơn
hai mươi người làm gia thần thủy thủ. Ngày hôm sau đã thấy sứ thần mang chiếu
thư đến sai ông đem quân đi đánh giặc. Ông vâng mệnh ra đánh quân Tống, một
trận đầu chúng bị thua to, chém được chánh tướng, bắt được khí giới ngựa xe nhiều
vô kể lại bắt sống được bọn Hầu Nhân Bảo và Triệu Phụng Huân, đem quân khải
hoàn về Kinh Sư, nhà vua cho mở hội lớn mừng công, gia phong cho tướng sỹ,
người người đều được khen thưởng, ban cho ông thực ấp ở trấn Hải Dương, ông lạy
tạ trở về nơi thực ấp ở Hải Dương. Nhân khi thong thả ông trở về chơi nơi sở
đồn cũ ở trang Tử Đôi thăm hỏi dân tình, biết dân được yên vui. Lúc ấy phụ lão,
dân chúng cũng như gia thần ở trang Tử Đôi đều thưa rằng; từ khi ông lập doanh
đồn ở làng chúng dân hình phạt công minh, giảm nhẹ, dân được no đủ, hiểu biết
lễ nghĩa do công đức của ông.
Nhân
đây được xin rằng: Bây giờ là đồn sở sau này được làm nơi thờ cúng, ông bằng
lòng, truyền bày yến tiệc mời phụ lão nhân dân và gia thần cùng dự, lại ban năm
hốt vàng mười, để ngày sau tu bổ nơi thờ cúng; và làm tờ chúc từ để lại. Ông
vừa nói xong bỗng thấy đất trời tối tăm mịt mù mưa to gió lớn lại có một đám
mây sắc tía từ trên trời sa xuống, trông giống chiếc xa giá đến rước đi, vụt
thấy ông cỡi mây bay đến sông Nhị Hà, trong phút chốc trời lại quang đãng,
nhưng sóng trên mặt sông rất là dữ dội, cá, rắn, rùa, thuồng luồng xuất hiện
đón rước ông đi, không biết đi đâu "Ông đã hóa, hôm ấy là ngày mười
lăm tháng mười một" .
Thời
gian ấy nhân dân, gia thần và quân sĩ rất sợ hãi, bèn dâng biểu về triều, nhà
vua bèn sai làm lễ để tế ông và sắc phong làm tôn thần Bạt Hải Long
Vương Đại vương tặng phong duệ trí thiện văn tá tỵ quang hoa thắng toán
hộ quốc bảo dân thượng đẳng thần, chuẩn y
cho trang Tử Đôi rước đệ hiệu nói trên về lập đền thờ.
Lại
nói: từ đó về sau rất là linh ứng nên nhiều đời vua ban sắc gia phong cho đức Đại
vương.
Đến
đời vua Trần Thái Tông, giặc Nguyên sang cướp nước ta. Kinh đô bị vây hãm đức
Trần Quốc Tuấn vâng mệnh vua đi cầu đảo các bách thần ở các Đình miếu đều rất
hiển ứng, được âm phù nên vua Thái Tông bèn bao phong mỹ tự là; Nhất vị
hộ quốc bảo dân linh ứng đại vương.
Vua
Lê Thái Tổ khởi nghĩa binh; binh được tướng Liễu Thăng nhà Minh thu được thiên
hạ, nhà vua phong mỹ tự là; Nhất vị phổ tế cương nghị anh linh đại vương và ban sắc chỉ cho trang Tử Đôi tu sửa Miếu điện
thờ phụng được vẻ vang vậy.
Một
điều phải vâng theo: Ngày thần sinh, ngày thần hóa và xuân thu, các ngày tiệc
đó cùng với chữ húy là Hải đều cấm
dùng.
Chuẩn
y cho trang Tử Đôi thờ phụng thần sinh vào ngày mười lăm tháng hai, chính lệ lễ dùng, ban trên lễ chay, ban dưới có
trâu, lợn, ca hát và các trò chơi khác.
Thần
hóa ngày mười lăm tháng mười một là chính;
Dùng lễ vật như trên, cấm mọi trò ca hát.
Lệ
chính lễ cầu phúc mùa xuân, mùa thu vào mười lăm tháng hai, tháng tám lễ vật
dùng tùy nghi, ngày lành tháng giêng năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) Đông các
đại học sĩ hàn lâm lễ viện thần Nguyễn Bính kính gửi:
Ngày
lành tháng tám năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) nội các thần ở bộ lại kính cẩn sao lại
theo bản cũ.
Người dịch: Nguyễn Thị Trang - Cán bộ viện
nghiên cứu Hán Nôm
{Được sao chép lại ngày 18 thàng 12 năm 2013 - xã
Đoàn lập}
THẦN SẮC
Phiên
âm:
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tử Đôi xã tòng tiền phụng sự nguyên tặng dực bảo
trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng hộ quốc bảo dân Bạt Hải long vương
tôn thần, hộ quốc tý dân nẫm trứ linh ứng tiết mông.
Ban
cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự tứ kim trinh trực Trẫm tứ tuần đại khánh tiết
kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật, trứ gia ..ng hoằng hợp thượng đẳng
thần, đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!
Dịch
nghĩa;
Sắc
Kiến An tỉnh huyện Tiên Lãng, xã Tử Đôi từ trước tới nay được thờ thần được
tặng là Dực bảo trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng Bạt Hải long vương
tôn thần.
Thần
đã có công bảo hộ đất nước, che chở cho dân rất nhiều linh ứng, vào các dịp
khánh tiết, thần từng được ban cấp sắc phong, chuẩn cho dân làng được phép thờ
cúng, đến nay đúng vào dịp lễ lớn mừng Trẫm vừa tròn 10 tuổi từng ban chiếu ban
gia ơn sâu, theo lễ cơ sự tặng thưởng thần xứng đáng được gia tặng làm hoàng
hợp thượng đẳng thần, đặc chuẩn cho nhân dân địa phương phụng thờ để ghi phúc
nước và làm rạng rỡ điển lễ thờ cúng. Kính thay!
Niên hiệu Khải Định thứ 9 tháng 7 ngày 25.
Ừ nhận xét
Trả lờiXóa