"Lụt lạo thì tháo Cống Đôi - Nhược bằng hạn hán thì bơi Đầm Bì"
THẦN TÍCH -
THẦN SẮC LÀNG VÂN ĐÔI
Chép: Tại viện
thông tin khoa học xã hội ở Hà Nội còn lưu trữ một bản kê khai thần tích - Thần
sắc của làng Vân Đôi tổng Tử Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Kiến An (nay là thôn Vân
Đôi xã Đoàn lập huyện Tiên Lãng thành phố Hải Phòng); Mang kí hiệu
TTTS.11515(Có bản chụp Photocoppy theo bản gốc kèm theo).
Thần
tích được chép lại nguyên gốc do TS. Nguyễn Hữu Mùi dịch - Cán bộ nghiên cứu
Viện Hán Nôm, dịch ngày 22 tháng 3 năm 2011.
NGỌC PHẢ
GHI VỀ MỘT
VỊ ĐẠI VƯƠNG
ÂM PHÙ CHO
MỘT VỊ ĐẠI VƯƠNG LÀ CÔNG THẦN
Ở TRIỀU
HÙNG DUỆ VƯƠNG.
(Ngọc phả chi chấn, bộ thượng dẳng thần)
Xưa
nước Nam mở vận ở phương Nam, sông núi phân theo địa phận sao Chẩn, sao Dực, Trung
hoa phân phong thẳng theo địa phận sao Đẩu, sao Ngưu, từ Kinh Dương Vương của
Triều Hùng thừa mệnh vua cha phân phong làm tông chủ đế vương của nước Việt Nam
ta. Ngài thấy Hoan Châu là nơi thắng địa, cho xây dựng Kinh Đô, thấy núi Nghĩa
Lĩnh hình thế tốt, cho trùng tu Miếu, Điện, ngôi vua truyền đến đời thứ hai
xưng Lạc Long Quân. lấy con gái vua ở Hồ Động Đình, định cư ở núi nghĩa Lĩnh,
trên đỉnh núi có mây Ngũ sắc sán lạn, thế là Âu cơ mang thai, Đủ kỳ sinh một
trăm trứng, nở ra điềm tốt một trăm người con trai, đều người anh hùng nổi
tiếng ở đời, đức độ hơn người. Khi trưởng thành vua mới phong hầu, lập phên
giậu, chia trong nước làm 15 bộ, bấy giờ Lạc Long Quân bảo với bà Âu Cơ rằng;
"Ta giống rồng, nàng giống tiên, tuy âm dương ngũ hành hợp lại mà sinh con
nhưng môn loại không cùng, thủy hỏa xung khắc, không thể chung hợp với nhau".
Nhân vì thế mà từ biệt, mới chia 50 người con theo cha về Miền biển làm thủy
thần, chia nhau cai trị các đầu sông góc biển ; 50 người con theo mẹ lên rừng
làm sơn thần, chia nhau cai trị các sườn non. Lại hẹn ước với nhau nếu có sự cố
thì báo nhau đến tương trợ, không được bỏ nhau. Vì vậy trong suốt triều Hùng có
bách thần song núi thường hay ứng hiện, đầu thai vào người nhà làm con để giúp
nước cứu dân, nhà nào có phúc tất sẽ được gặp.
Lại
nói: Đương thời vào thời vua Hùng thứ 18, tương truyền ngôi vua trao cho Duệ Vương
đóng đô ở Bạch Hạc Việt trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang đặt Kinh đô là Phong
Châu. Duệ Vương là người đại lược hùng tài tư chất như thánh triết, thừa hưởng
cơ đồ thịnh trị do tổ tông bồi đắp qua 17 đời, bên trong tu luyện người tài đức,
bên ngoài củng cố biên cương, để chí chấn hưng giúp đất nước thanh bình. Đương
vào thời gian đó, tại đất Vân Sơn huyện Thượng Hiền phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam
hạ, có gia đình họ Đào, tên húy là Phức, vợ là Nguyễn Thị Thuần gia cảnh bần
bách, lấy đánh cá làm nghiệp sống nhưng hay làm việc thiện. Việc thiện dù nhỏ
cũng làm, còn việc ác dù mảy may cũng không làm, nửa điểm hại người không can
dự, một hào lợi lộc chẳng vun vén cho bản thân, nhân dân địa phương thường khen
ngợi gia đình ông là một nhà làm việc thiện, tất sẽ hưởng phúc lớn.
Một
hôm vợ chồng đánh cá ở con sông nhỏ, bắt được hai mươi hốt vàng, ngày ngày sinh
nhai, dần dần trở lên sung túc. Thế là từ nghề đánh cá trở thành một ông nhà
giàu nhưng năm ông họ Đào đã 50 còn bà họ Nguyễn ngoài 40 mà chỉ sinh được mấy
người con gái, còn con trai vẫn hiếm muộn. Nhân vì thế ông không vui, thường
than vãn rằng: "Vàng có chất thành núi, thóc có lấp đầy biển đều xem nhẹ
như cỏ rác, chỉ có con thảo cháu hiền mói quí như vàng ngọc" thế là ông bà
phân phát hết của cải trong nhà giúp nghèo cứu khổ, lại thấy nơi nào có danh
sơn thắng cảnh hoặc có động thiêng, đền thiêng đều bỏ của cải sửa sang và tìm
đến cầu đảo.
Một
hôm, ông bà nghe tin ở phủ Quốc Oai đạo Sơn Tây có chùa Sài Sơn cực kỳ linh
ứng, cầu gì được lấy, nguyện được như ý, liền chuẩn bị một chiếc thuyền cùng
hai người chèo lái, mang đầy đủ lễ vật, tiền hương, theo sòng chảy mà đến cửa
sông Hát, tìm đến núi Sài, thấy nơi đây núi cao chót vót, khí tượng muôn hình,
linh thiêng khôn đoán, thực là nơi cảnh đẹp nhất nước Nam. Đêm hôm ấy ông bà
vào chùa làm lễ cầu đảo, thắp hương khấn rằng: "Thần ở nơi trần thế, tiền
tài như dải mây trôi, chỉ nghĩ đường con cái muộn mằn, những mong trời đất quỉ
thần hiển ứng soi xét mà ban phúc, khiến vợ chồng thần được đội ơn muôn phần
nhờ sự giúp đỡ của trời đất thần linh".
Đêm
hôm ấy vợ chồng ông ngủ trong động, đến cuối canh ba thì mông lung ngủ thiếp
đi, mộng thấy một ông già thân thể dị kì, hình dạng kì quái, tự xưng là quan
Sơn thần, bảo rẳng: "Nhà ngươi là người đức hậu, trời đất đã thấu tỏ, sau
này sẽ có con trai, ắt sẽ toại nguyện, không phải lo lắng gì nữa" nói xong
ông già biến mất. trong chốc nát, vợ chồng ông tỉnh dậy mới biết mình mộng,
nhưng còn bán tín bán nghi. Hôm sau vợ chồng ông làm lễ bái tạ, xuống thuyền
trở về địa phận trang Vân Đôi huyện Tiên Minh phủ Nam Sách trấn Hải Dương, bỗng
thấy trời đất mịt mù gió mưa thổi lên dữ dội, sóng nước dâng lên cuồn cuộn, vợ
chồng kinh sợ chạy lên bờ ẩn trú trong một ngôi Miếu. Một lúc sau bỗng thấy một
dải hào quang từ giữa Miếu bay ra, rồi vây bọc lấy người bà họ Nguyễn, bà họ
Nguyễn kinh sợ, ngã xuống đất nằm mê man tự mộng, mộng thấy người con trai y
mạo chỉnh tề, hình thể đẹp lạ, từ trong Miếu đi ra, tự xưng là quan Sơn thần, bảo
rằng: "Thần phụng mệnh thiên đình xin đầu thai vào bà làm con" người
đó nói xong liền biến mất, bà họ Nguyễn sợ hãi tỉnh dậy mới biết đây là mộng,
liền kể lại với ông. Ông bảo "Đây là điềm lành" vợ chồng ông liền làm
lễ bái tạ, xuống thuyền trở về nhà mình.
Từ đó
bà họ Nguyễn mang thai, đến ngày 12
tháng 11 năm giáp thìn sinh một người con
trai thiên tư đĩnh dị, thể mạo khác thường, ông biết đây là thần nhân xuất thế
nên rất quí con, mới đặt tên là Thượng, năm
lên ba tuổi biết nói, biết lễ nghĩa, năm lên bảy tuổi bắt đầu đi học, thiên tư
cao mại, lực học tinh thông, am tường sử tử, thành thạo võ nghệ, đến năm 22
tuổi than ôi, sự biến khôn lường, họa vô đơn chí, cả cha và mẹ ông Thượng cùng
mất. Ông khóc thảm sầu, thế không làm sao được, đành chọn thế đất quí làm lễ an
táng, đèn nhang thờ phụng tại gia đường theo nghi thức.
Sau
ba năm mãn tang cũng là lúc bộ chủ ai lao, họ thục tên Phán vốn là tông phái
nhà Hùng cai quản ở Ai Lao, đổi thành họ Thục đến lúc này nghe tin từ xa thấy
Duệ Vương hưởng tuổi thọ của trời đã nhiều, 20 hoàng tử đều về tiên bồng tuyệt
tích, không có người kế dõi, sắp nhường ngôi cho con rể là Sơn thánh, liền thừa
thế phất động chiến tranh, cầu viện các nước láng giềng, chỉnh đốn đem 100 vạn
quân tinh nhuệ, 300 ngựa chiến, phân làm 5 đạo, thủy bộ cùng tiến, thanh thế
trong quân rầm rộ, thư từ biên cương báo tin địch sang xâm phạm gửi gấp về
triều, khiến vua rất lo lắng, vua mới triệu Sơn Thánh hỏi kế đánh giặc, Sơn
Thánh tâu rằng "Hơn trăm năm nay vua là bậc thánh hiền, ân trạch của sáu
bẩy đời vua trước thấm vào cốt tủy người dân, còn nay, nước giàu, binh mạnh, uy
đức của bệ hạ lấy lừng hải ngoại, lại có lòng trời giúp đỡ, ban cho nhiều vị
anh tài như ông Thượng, như bách thần sông núi, thường xuất thế giúp nước. Nay
cơ sự như thế thần xin bệ hạ triệu ông Thượng đến rồi trao quan tước, cho ông
mang quân tiến hành tuần tiễu trước tại các đạo để gây thanh thế trong quân mà
đề phòng bất trắc, còn thần tự nguyện thay vua lo phần nặng nhọc, tự chọn tướng
tài, quân thục không quá 10 ngày sẽ bị đánh tan!" Vua nghe xong rất vui
mừng, lập tức cho triệu Thượng đến hỏi kế đánh giặc. Vua thấy ông trả lời trôi
chẩy, cho thi văn võ cũng thấy tài. Vua cho đây là người giỏi nhất trong nước,
lập tức phong cho ông chức Điện tiền đô chỉ huy sứ Đại tướng quân, mang quân
tiến hành tuần phòng trước ở hai lộ Đông và Bắc. Bấy giờ ông bái tạ vua nhận
quan tước, lĩnh quân thủy bộ đường hoàng mà tiến.
Một
hôm, ông cho quân tiến đến trang Vân Đôi huyện Tiên Minh phủ Nam Sách trấn Hải
Dương thì cho hội họp quân nghỉ lại một ngôi Miếu. Đến đầu canh hai đêm hôm ấy
ông thấy một ông già từ trong miếu đi ra bảo rằng "Thần vâng chiếu của
triều đình làm thần bản cảnh, vị hiệu của thần là Hiển Liệt, ngự trị tại miếu, nay biết tin tướng quân cầm quân
đánh giặc đến địa phận nơi này nên thần muốn đến yết kiến, xin âm phù cho ngài
đánh giặc lập công, về sau hiển vị thì cùng được tế tự". Ông già nói xong liền biến mất.
Hôm
sau ông triệu phụ lão trong trang đến hỏi nguyên cớ cho được tường tận. Phụ lão
mới tâu rằng "Trong trang từ trước đến nay phụng thờ một vị thượng đẳng thần,
vốn rất linh ứng nhưng trước đây 20 năm có đôi vợ chồng đến trú ở miếu này thì
từ đó đến nay không thấy linh nghiệm nữa". Ông cười rồi bảo, "đó
chính là cha mẹ ta nên ta mang quân đến trú nơi đây".
Đương
lúc bấy giờ nhân dân trong trang đang rất sợ hãi, mới làm lễ xin làm thần tử
cho ông, ông bảo "Sau khi ta trăm tuổi, trang các ngươi là nơi có hậu, ta
coi đó làm trọng nên ta di mệnh mãi mãi về sau trang nơi này phụng thờ ta".
Ông truyền quân sĩ thiết yến tiệc, mời nhân dân gia thần trong trang đến ăn
uống. Trong lúc hưởng yến bỗng thấy sứ giả mang chiếu thư đến sai ông mang quân
đi đánh giặc, ngay lập tức ông phụng mệnh theo chiếu thư, lựa chọn hơn 20 người
cường tráng trong trang làm gia thần tôi tớ, cho quân tiến thẳng đến đồn giặc ở
núi Sóc đạo Kinh Bắc. Khi đến nơi ông hội họp quân sĩ dưới chân núi bàn kế sách
tiến công quân thục. Bỗng thấy quân Thục trùng trùng lớp lớp kéo đến, bốn mặt vang
tiếng quân địch hò reo. Quân của ông chưa kịp mặc áo giáp, chưa kịp đóng yên
ngựa, lập tức đánh để giải vây. Triều đình không biết tin nên không cho quân
đến cứu viện. Ông ôm đầu ngẩng lên trời ngầm khấn rằng. "Ta là tướng quân
mà chết ở đây chăng? Mong lòng trời hãy tương trợ âm phù giúp ta đánh
giặc" trong chốc lát, trời đất tối tăm, gió mưa ào ào, quân Thục đại bại,
chém được chính tướng của địch, tịch thu lương thực và ngựa của chúng nhiều vô
số.
Từ đó
thiên hạ thanh bình, vua ban chiếu triệu hồi, ông phụng mệnh cho quân trở về
triều, mở yến tiệc ăn mừng thắng trận, gia phong cho tướng sĩ theo thứ tự công
lao khác nhau. Ông phụng mệnh theo chiếu trở về đến miếu của trang Vân Đôi, mở
yến tiệc khao quân sĩ nhân dân và gia thần, bảo với phụ lão nhân dân rằng;
"Ta phá được quân Thục là do lòng trời giúp đỡ, thần linh phù trợ, ta từ
đây được hiển danh". Phàm việc tế tự thì cung thỉnh vị thần Bản Cảnh với
thần hiệu như thế để phối hưởng với ta. Ta ban cho dân 5 hốt vàng để về sau tu
sửa đồ tế khí". Nói xong, bỗng trời đất tối đen, mây mù nổi lên bốn phía,
thấy một dải mây vàng như hình dải lụa từ trời giáng thẳng xuống trước miếu.
Ông theo dải mây vàng bay lên không trung, nhập vào núi Sài, không thấy ông đâu, tức ông đã hóa (Hôm
ấy là ngày 15 tháng 5). Đương lúc ấy nhân dân
và quân sĩ ai cũng hoảng sợ, mới làm lễ dâng biểu lên triều. Vua biết tin, sai
bề tôi trở về làm lễ. Lễ xong sai sứ mang sắc phong ban tặng cho ông là Thượng
đẳng thần tôn thần, tặng phong cho vị bản cảnh
mỹ tự là Trung Túc Anh Nghị Trí Minh Hiển Liệt Ngưng hưu Trung đẳng thần. Cùng đất nước hưởng niềm vui, giữ làm thường lệ,
chuẩn cho trang Vân Đôi rước mỹ tự trở về trong dân, tu sửa Miếu Vũ, lấy làm
nơi thờ tự.
Lại
nói, từ đó về sau đều thấy linh ứng hiển hiện, do vậy trải các đời đế vương
thường ban sắc, gia phong mỹ tự cho hai vị Đại vương.
Trải
đến đời Trần Thái Tông, giặc Nguyên sang xâm lược nước ta, kinh thành bị chúng
vây hãm, Trần Quốc Tuấn phụng mệnh Vua đi cầu đảo bách thần ở các ngôi Đền
thiêng, khi đến ngôi đền thờ hai vị cũng thấy hiển ứng linh phù, nên ông được
phong là Chiêu Dụ Đại vương, còn vị Bản
cảnh được phong là Khoan hoằng Uy liệt Hiển hựu Trợ thuận Đại vương.
Đến
thời Lê Thái tổ khởi nghĩa đánh Liễu Thăng nhà Minh, khi thu phục được đất
nước, vua gia phong mĩ tự cho hai vị là Phổ tế Cương nghị Anh linh Đại
vương. Ban sắc cho trang Vân Đôi tu sửa Miếu
điện để phụng thờ hai vị. tốt đẹp thay!
Phụng
khai sinh ngày, ngày hóa, các tiệc, tên húy phải cấm sẽ kê dưới đây.
Ngày
sinh thần: 12 tháng 11, lấy làm lệ chính, lễ
dùng trên có mâm chay, dưới có Lợn đen, xôi, rượu, bánh dầy, mở các trò đánh cờ
đấu vật.
Ngày
hóa của thần: 15 tháng 5, lấy làm lệ chính. Lễ
vật dùng như ngày sinh của thần. Cấm không ca hát.
Tên
húy phải cấm, gồm chữ Thượng, Chuẩn cho trang Vân Đôi phụng thờ.
Ngày
tốt tháng 1 niên Hồng Phúc thứ nhất (1572). Hàn lâm viện đông các đại học sĩ,
bề tôi là Nguyễn Bính phụng mệnh soạn bản chính.
Ngày
tốt tháng 8 niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740) triều Lê. Nội các bộ lại tuân mệnh
sao lại theo bản chính.
Ngày
13 tháng 12 niên hiệu Khải Định tứ 8 (1923) triều Nguyễn, sao lại theo bản cũ. Do bản cũ lưu tại Đền Hùng Vương ở xã Cổ
Tích tỉnh Phú Thọ.
2. THẦN
SẮC.
"(Trong
phần thần sắc do lLý trưởng Phạm Văn Yêm sao dưới đây ghi 11 đạo nhưng có 2 đạo
trùng nhau {Trùng về câu chữ, trùng cả về niên đại} nên chỉ còn 10 đạo. Trong
10 đạo này thì đạo sắc thứ 2 bị mất một số chữ. Trong dịch bản, chúng tôi sắp
xếp 10 dạo thần sắc theo trật tự niên đại )".
Đạo sắc thứ
nhất
Phiên âm:
Sắc
Kinh Sơn Linh ứng đại vương: Hộ quốc tí dân, nẫm trứ công đức, kinh hữu lịch
triều tặng phong. Phụng ngã thế tổ cao hoàng đế đại trấn anh uy, khai thác
cương thổ. tứ kim phi ưng cảnh mệnh, quang thiệu hồng đồ, diến niệm thần hưu,
hạp long ân điển, khả gia tặng tĩnh trấn chi thần, chuẩn hứa Tiên Minh huyện
Vân Đôi xã y cựu phụng sự. Thần kì tương hữu bảo ngã lê dân. Cố sắc!
Minh mệnh nhị niên thất nguyệt nhị thập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho vị thần [mỹ tự] Kinh sơn Linh ứng Đại vương: Ngài phù giúp nước, che chở dân, công đức tỏ rõ,
trải các triều được ban tặng sắc phong. Ngài phù giúp cho Thế Tổ Cao Hoàng đế
ta (Vua Gia Long), tạo uy danh trấn động , mở mang bờ cõi. Nay trẫm nối mệnh
lớn, nối giữ cơ đồ vẻ vang, nghĩ đến công lao của ngài, mở rộng ân huệ tốt,
xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn chi thần, chuẩn cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh
phụng thờ như cũ. Ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày 21 tháng 7 niên hiệu Minh mệnh thứ 2 (1821)
Đạo
sắc thứ 2
Phiên âm.
Sắc Tĩnh
trấn chi thần: Hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc
phụng sự, Minh mệnh nhị thập nhất niên, ngã (...) bảo chiếu, đàm ân, lễ long đăng
trật. Tư kinh phi ưng cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, khả gia tặng tĩnh trấn
trinh ninh chi thần. Nhưng chuẩn hứa Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu phụng sự.
Thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Thiệu trị tứ niên lục nguyệt nhị thập nhị nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho vị thần, mĩ tự là tĩnh trấn; Ngài phù giúp nước, che chở dân linh ứng
tỏ rõ, trải các tiết được ban tặng sắc phong phụng thờ. Năm Minh Mệnh thứ
21(1840), nhân lúc thánh tổ ta (Vua Minh Mệnh) hưởng thọ tuổi ngũ tuần bèn ban
chiếu báu , mở rộng ân huệ, làm lễ đăng trật, nay trẫm nối theo mệnh lớn, nghĩ
đến công lao của ngài, xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh chi thần,
chuẩn cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh phụng thờ như cũ. Ngài hãy che chở cho dân
của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
ngày 22 tháng 6 niên hiệu thiệu trị thứ 4 (1844).
Đạo
sắc thứ 3
Phiên
âm:
Sắc Tĩnh
trấn trinh ninh kinh sơn linh ứng chi thần: Hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng,
tiết mông ban cấp tặng sắc, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, diến
niệm thần hưu, khả gia tặng tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu chi thần. Nhưng
chuẩn hứa Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã
lê dân. Khâm tai!.
Thiệu trị tứ niên thất nguyệt nhị nhập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Ban
sắc cho vị thần, (Mỹ tự) là Tĩnh trấn trinh ninh Kinh sơn linh ứng: Ngài phù
giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ, trải các tiết được ban cấp tặng sắc,
chuẩn cho thờ phụng. Ngay trẫm nối theo mệnh lớn, nghĩ đến công lao của ngài,
xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh Quảng hậu chi thần. Chuẩn cho xã Vân
Đôi huyện Tiên Minh phụng thờ như cũ, ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày 22 tháng 7 niên hiệu thiệu trị thứ 4 (1844).
Đạo
sắc thứ 4
Phiên
âm;
Sắc
Kinh Sơn linh ứng chi thần, nguyên tặng tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu chi
thần: Hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc, chuẩn hứa phụng
sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, khả gia tặng tĩnh trấn trinh
ninh quảng hậu tú ngưng chi thần. Nhưng chuẩn Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu
phụng sự. Thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Tự Đức tam niên thập nhất nguyệt thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa;
Sắc
ban cho vị thần (Mỹ tự) là Kinh Sơn linh ứng, vốn được ban tặng là Tĩnh trấn
trinh ninh Quảng hậu chi thần: Ngài phù giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ,
trải các tiết được ban cấp tặng sắc, chuẩn cho thờ cúng. Nay trẫm nối mệnh lớn,
nghĩ đến công lao của ngài, xứng đáng gia tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh Quảng
hậu tú ngưng chi thần. Chuẩn cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh phụng thờ như cũ.
Ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày 15 tháng 11 niên hiệu Tự Đức thứ 3 (1850).
Đạo
sắc thứ 5:
Phiên âm:
Sắc
chỉ Hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Vân
Đôi xã tòng tiền phụng sự Tĩnh trấn Trinh ninh Quảng hậu tú ngưng Kinh Sơn Linh
ứng chi thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập
nhất niên, chính trị tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu, đàm ân, lễ
long đăng trật, đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự
điển. Khâm tai!.
Tự Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thaaph
tứ nhật.
Dich
nghĩa;
Sắc
ban cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương từ trước đến nay phụng thờ vị
thần (Mỹ tự) là Tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu tú ngưng kinh Sơn Linh ứng. Trải
các tiết được ban sắc phong, chuẩn cho thờ cúng năm Tự Đức thứ 31(1878), nhân
lúc trẫm làm lễ mừng thọ hưởng tuổi tứ tuần, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân huệ,
làm lễ đăng trật, đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà
kéo dài việc thờ ngài. Vậy nay ban sắc!
Ngày 24 tháng 11 niện hiệu Tự Đức thứ 33 (1880).
Đạo
sắc thứ 6;
Phiên âm;
Sắc
tĩnh trấn trinh ninh quảng hậu tú ngưng kinh sơn ninh ứng chi thần, hướng lai
hộ quốc: tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc lưu tự, tứ kinh phi
ưng cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, khả gia tặng Dực bảo trung hưng chi thần.
Nhưng chuẩn hứa hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã y cựu phụng sự. Thần
kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!.
Đồng Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho vị thần(Mỹ tự) là Tĩnh trấn trinh ninh Quảng hậu tú ngưng Kinh Sơn linh
ứng. Từ trước đến nay Ngài phù giúp nước, che chở dân, linh ứng hiển hiện, trải
các tiết được ban cấp tặng sắc lưu thờ. Nay Trẫm nối theo mệnh lớn, nghĩ đến
công lao của ngài, xứng đáng gia tặng là Dực bảo trung hưng chi thần, chuẩn cho
xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương phụng thờ như cũ, ngài hãy che chở
cho dân của trẫm. Vậy nay ban sắc!
Ngày mồng 1 tháng 7 niên hiệu đồngkhánh thứ 2 (1887)
Đạo
sắc thứ 7.
Phiên âm:
Sắc
chỉ Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Tử Đôi Tổng Vân Đôi xã tòng tiền phụng sự Dực
bảo trung hưng linh phù Chiêu dụ chi thần; Trấn tĩnh trinh ninh Quảng hậu tú
ngưng Dực bảo trung hưng Kinh Sơn ninh ứng chi thần. Tiết kinh ban cấp sắc
phong, chuẩn kỳ phụng sự, Duy tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban bảo
chiếu, đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh
nhi thân tự điển. Khâm tai!
Duy tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho xã Vân Đôi tổng Tử Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến An trước đây phụng thờ
vị thần (Mỹ tự) là Dực bảo trung hưng Linh phù chiêu dụ; cùng vị thần (Mỹ tự)
là trấn tĩnh trinh ninh Quảng hậu tú ngưng Dực bảo trung hưng Kinh Sơn linh ứng
(Hợp phong hai vị thần trong một đạo sắc). Trải các tiết được ban cấp sắc
phong, chuẩn cho thờ cúng. Năm Duy tân thứ nhất (1907), nhân đại lễ lên ngôi
của trẫm, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân huệ, làm lễ đăng trật, đặc chuẩn cho
phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà kéo dài việc thờ thần. Vậy nay
ban sắc!
Ngày 11 tháng 8 niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909).
Đạo
sắc thứ 8.
Phiên âm:
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã phụng sự Đương Cảnh thành hoàng Anh
nghị chi thần; Hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị mông ban cấp sắc
văn. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, trứ phong vi đôn ngưng Dực
bảo trung hưng chi thần. Đặc chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê
dân. Khâm tai!
Duy tân ngũ niên nhuận lục nguyệt thập bát nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban chi xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến An phụng thờ vị thần là đương cảnh
thần hoàng (Mỹ tự) là anh nghị. Ngài giúp nước che chở dân linh ứng tỏ rõ,
nhưng từ trước đến nay chưa được đôi ơn ban cấp sắc phong. Nay trẫm nối mệnh
lớn, nghĩ đến công lao của ngài, gia phong là Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng chi
thần. Đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ, ngài hãy che chở cho dân của Trẫm. Vậy
ban sắc!
Ngày mồng 1 tháng 6 nhuận niên hiệu Duy Tân thứ 5
(1911).
Đạo
sắc thứ 9.
Phiên
âm;
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã tòng tiền phụng sự, nguyên tặng Đôn
ngưng Dực bảo trung hưng Đương cảnh thành hoàng Trung túc Anh nghị Trí Minh tôn thần: Hộ quốc, tý dân, Nẫm trứ linh
ứng, tiết mông ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị Trẫm tứ
tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu, đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia
tặng tĩnh hậu đẳng trung thần. Đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân
tự điển. Khâm tai!
Khải định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Dịch
nghĩa;
Sắc
ban cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến an từ trước đến nay phụng thờ vị
thần, vốn được phong tặng là Đôn ngưng Dực bảo trung hưng Đương cảnh thành
hoàng Trung túc Anh nghị Trí minh Tôn Thần: Ngài phù giúp nước, che chở dân,
linh ứng tỏ rõ, trải các tiết được ban cấp sắc phong, chuẩn cho thờ cúng. Nay
trẫm gặp lúc làm lễ mừng thọ hưởng tuổi tứ tuần, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân
huệ, làm lễ đăng trật, gia tặng là Tĩnh hậu trung đẳng thần, đặc chuẩn cho
phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà kéo dài việc thờ ngài. Vậy nay
ban sắc!
Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924)
Đạo
sắc thứ 10.
Phiên âm;
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Minh huyện Vân Đôi xã tòng tiền phụng sự, nguyên tặng Tĩnh
trấn trinh ning Quảng hậu Tú ngưng Dực bảo trung hưng Kinh Sơn linh ứng cương
công chiêu dụ tôn thần; Hộ quốc, tý dân, Nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp
sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh tiết,
kinh ban bảo chiếu, đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia tặng tủng bạt trung đẳng
thần, đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!
Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Dịch
nghĩa:
Ban
sắc cho xã Vân Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Kiến An từ trước đến nay phụng thờ vị
thần, vốn được phong tặng là Tĩnh trấn Trinh ninh quảng hậu tú Ngưng Dực bảo
trung hưng Kinh sơn linh ứng cương công chiêu dụ tôn thần; Ngài phù giúp nước
che chở dân, linh ứng tỏ rõ, trải các tiết được ban cấp sắc phong, chuẩn cho
thờ cúng. Nay Trẫm gặp lúc làm lễ mừng thọ hưởng tuổi tứ tuần, bèn ban chiếu báu, mở rộng ân huệ,
làm lễ đăng trật, gia tặng là tủng bạt Trung đẳng thần, đặc chuẩn cho thờ phụng
như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh mà kéo dài việc thờ ngài. Vậy nay ban sắc.
Ngày 25 tháng 7 niên hiệu khải Định thứ 9 (1924).
Ngày 18 tháng 5 niên hiệu Bảo Đại thứ 13 (1938).
Xã
Vân Đôi phụng mệnh sao sắc phong.
Lý
trưởng Phạm Văn Yêm (Đóng dấu).
Được TS
Nguyễn Hữu Mùi - Cán bộ Nghiên cứu Viện Hán Nôm dịch, ngày 22 tháng 3 năm 2011.
Bản
dịch được chép lại, ngày 16 tháng 12 năm 2013 tại xã Đoàn Lập.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét