"Dù đi xa thật là xa
Cũng không quên được cây Đa, Giếng làng"
Thần tích - Thần sắc làng Tiên Đôi Ngoại - Xóm Chợ xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng - HP.
(Đoàn Lập - Trích dịch từ Bảo tàng thành phố Hải Phòng)
ĐẠO SẮC
ĐÌNH TIÊN ĐÔI NGOẠI
Huyện
Tiên Lãng xã Đoàn Lập thôn Tiên Đôi Ngoại - xóm Chợ
Dịch nghĩa:
1.
Sắc chỉ Hải Dương tỉnh Tiên Minh huyện Tiên Đôi xã Ngoại thôn tòng tiền phụng
sự "Tích phúc duyên hỷ công chính thuần chính thiên quan chi thần".
Tiết kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập nhất niên,
chính trị trẫm ngũ tuần đại khánh tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng
trật, đặc chuẩn hứa, y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm
tai!
Tự
Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.
2.
Sắc"Tứ phúc duyên hỷ công thuần chính, thiên quan chi thần" hướng lai
hộ quốc, tý dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp, sắc tặng lưu tự, tứ kim
phỉ ưng.
Cảnh
Mệnh miến niệm thần hưu khả gia tặng "Dực bảo trung hưng chi thần"
nhưng chuẩn hứa Hải Dương tỉnh, Tiên Lãng huyện, Tiên Đôi xã ngoại thôn, y cựu
phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Đồng
Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.
3.
Sắc Hải Dương tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi xã ngoại thôn phụng sự: "Đương
cảnh thành hoàng lai chi thần" nẫm trứ linh ứng, Hướng lai vị hữu dự
phong, tứ kim phỉ thừa.
Cảnh
mệnh, miến niệm thần hưu, trứ phong vi "Dực bảo trung hưng linh phù chi
thần". Chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Thành
Thái nguyên niên thập nhất nguyệt thập bát nhật.
4.
Sắc chỉ Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Tiên Đôi Ngoại xã, tòng tiền phụng sự
"Dực bảo trung hưng, linh phù đống Lang anh linh chi thần, Dực bảo trung
hưng linh phù đương cảnh thành hoàng lai tôn chi thần" tiết kinh ban cấp
sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Duy tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban
bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc
khánh, nhi thân tự điển. Khâm tai!
Duy
tân tam niên thập nguyệt, thập nhất nhật.
5.
Sắc Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Ngoại xã tòng tiền phụng sự nguyện
tặng: Tính phúc duyên hỷ, công chính thuần chính dực bảo trung hưng, linh phù
thiên quan đồng lang tôn thần". Hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng. Tiết
mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần dại
khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trứ gia tặng:
"Linh phù trung đẳng thần". Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh,
nhi thân tự điển. Khâm tai!
Khải
Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
6.
Sắc chỉ Kiến an tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Ngoại xã tòng tiền phụng sự
nguyên tặng "Hiển hựu trợ thuận, Dực bảo trung hưng, linh phù đương cảnh
thành hoàng Đống Lai tôn thần". Hộ quốc tý dân nẫm trứ linh ứng, tiết mông
ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần đại khánh
tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long trật trứ gia tặng "Đôn ngưng tôn
thần". Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm
tai!
Khải
Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
II/ Dịch nghĩa:
1.
Ban sắc cho thôn ngoại xã Tiên Đôi huyện Tiên Minh tỉnh Hải Dương đã từng thờ
ngài "Tích phúc duyên hỷ, công chính thuần chính thiên quan chi
thần". Trải các tiết đều được cấp sắc cho phép thờ tự, niên hiệu Tự Đức
thứ 31, nhân lễ mừng thọ trẫm 50 tuổi, bèn ban chiếu báu báo ân, lễ có nâng
phẩm trật. Cho phép xã nhà tiếp tục thờ tự để nhớ ngày lễ lớn và duy trì điển
thờ. Hãy tuân sắc.
Ngày
25 tháng 11 niên hiệu Tự Đức 33 (1880).
2.
Sắc ban cho "Tứ phúc duyên hỷ, công chính thuần chính thiên quan chi
thần". Ngài thường cứu nước giúp dân, linh ứng tỏ rõ. Trải các tiết đều
được ban cấp sắc cho phép thờ tự tới nay vẫn linh nghiệm.
Nay
nối thừa mệnh lớn, nhớ tới công lao to lớn của thần tăng thêm mỹ tự: "Dực bảo
trung hưng chi thần". Cho phép thôn ngoại, xã Tiên Đôi huyện Tiên Lãng
tỉnh Hải Dương thờ tự như trước. Mong thần cứu giúp che chở chúng dân của trẫm.
Hãy tuân sắc.
Ngày
01 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh 2 (1887).
3.
Sắc ban cho thôn Ngoại xã Tiên Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Dương đã từng thờ
ngài "Đương cảnh thành hoàng lai chi thần". Linh ứng nhiều năm mà
chưa có sắc.
Nay
nối thừa mệnh lớn, nhớ công ơn to lớn của thần phong mỹ tự là: "Dực bảo
trung hưng linh phù chi thần" cho phép thờ tự như trước. thần hãy cứu giúp
che chở cho dân của trẫm. Hãy tuân sắc.
Ngày
18 tháng 11 niên hiệu Thành Thái 1 (1889).
BẢN DỊCH
THẦN PHẢ ĐÌNH
TIÊN
ĐÔI NGOẠI XÃ ĐOÀN LẬP HUYỆN TIÊN LÃNG HẢI PHÒNG
Thời
Trần nhân tông có hai vị đại vương anh hùng. Phả lục do khâm chi bộ thượng đẳng
quốc triều lễ bộ trích áo tích nam thiên. Ngay từ đầu dựng nước, lúc nào vận nước
cũng được thanh bình. Nước Nam
có chủ. Theo số trời phân phong. An Dương Vương làm vua nước Nam . Vua Hùng đã tìm nơi đất tốt để
lập kinh đô xây dựng quốc phòng. Tu tạo Miếu điện. Truyền quốc tái thế.
Thuyết
đã truyền cụ Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ ở phủ Động Đình, đã sinh một
bọc, một trăm quả trứng được 100 người con trai thì Đô thị hơn thời quán thế
đức độ hơn người. Lạc Long quân củng cố đất nước, chia nước thành 15 bộ. Đối
ngoại vua lập bình phân trung quốc. Đối với con gái vua bảo Âu Cơ rằng ta là
giống rồng, phải có âm dương ngũ hành chi khí. Nhưng các con lại nhiên phương
bất đồng, thủy hỏa tương khắc, bất khả đồng cư, nên phải chia con. 50 người
theo cha xuống biển làm thủy thần phân trị thủy giang đầu sông góc biển, 50
người theo mẹ lên núi làm sơn thần trông coi các núi, các rừng. Nhưng mỗi khi
nghe theo tiếng gọi mà về ứng giúp đỡ lẫn nhâu. Các con đều là cổ chung nguồn
gốc, đều là sơn thủy bách thần, thường năng xuất hiện, biến hóa thần cơ, phải
luôn âm phù hộ quốc tỷ dân.
Thời
Vua Hùng Vương thứ 18 Duệ vương, tương truyền Vua Hùng kế trị, đến Bạch Hạc,
quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Nhà vua cho xây thành đắp lũy,
thiết lập hùng tài văn võ.
Thời
Hùng Vương thứ 16 vua Thịnh Vượng, người đã nối ngôi kế thế, nối đời chiều
tông. Thế cơ đồ chí thịnh, người vẫn lo nội tu văn miếu, ngoại bị biên cương
đốc ý hưng bình, Rỹ An Trung Quốc. Người sinh hạ được 20 hoàng tử 6 công chúa,
các hoàng tử đều đô thị hơn người, các công chúa đều tiên phùng tuyệt đẹp. Các
con ai cũng có chí hướng lập tích Hùng gia.
Ý
trời dã định nước lân bang trung Quốc có các triều chí tây, đông lưỡng hán ngô,
tấn tống tề lương tùy đường, ở các nước Nam có các triều đại Đinh, Lê, Lý,
Trần, 4 họ nối nhau khai sáng hoàng đồ.
Đến
đời trần nhân Tông làm vua 14 năm người dã thừa trị triều tông, tông bồi kế thế,
tương truyền chí thịnh. Nội tu văn đức ngaoij bị biên cương, đốc ý hưng bình Rỹ
An trung quốc. Cùng thời điểm này tại trấn Ngọc Nam (Nay gọi là Thanh Hóa) có
một nhà họ Công Tính, tên Đào (Công Tính Đào) Húy là Công Tính Vượng, cụ Công
Tính Đào lúc đầu cũng được phong tư ấm thế
thừa cụ đã kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Hiền. bà ở phối bản Quận Nhân là
con một nhà thi lễ trâm anh thế phiệt bà chuyên làm nghề y thuật, làm việc
lành, giúp đỡ mọi người, hai ông bà vui tươi một mối làm ăn, hiền hòa phúc hậu,
nhưng hiềm một nỗi tuổi cao, nam tử chưa có nên buồn bã chưa vui, hai ông bà
chỉ những ngày đêm nhang đăng cầu khấn phật trời làm việc lành ước mơ có một
nam tử, một đêm đến canh hai, bà mơ thấy một cụ già cao to dóng giả, cụ một tay
thủ trì một chấp kích, một tay cầm hai qủa Đào, bảo bà Hiền ăn đi, bà ăn liền,
thế rồi cụ già hét một tiếng và biến mất, bà liền hoảng hốt tỉnh dậy mới biết
mình chiêm bao. Đến sáng bà đem chuyện giấc mơ kể với ông Tính Vượng, ông Vượng
nói đó là điềm lành, từ đó bà thấy trong mình dã mang thai đến năm nhâm thìn
thập nhất nguyệt sơ thập nhất, sinh hạ nhất bào kiến suất song nam, hai nam thiên
tử lĩnh rỵ, kỳ khôi, cụ Công Tính nói, thật là phúc hữu trùng lai, thiên tri cơ
ích, thậm cầu ái tri lan dĩ vi huynh, lan sử vi đệ. Bèn mệnh danh nhất viết
lang (Công Tính Lang). Nhị viết lai (Công Tính Lai). Hai vợ chồng cụ Công Tính
ra sức nuôi dạy hai con. Đến năm 7 tuổi cho nhập học, năm 12 tuổi dã thiên tài,
cao bồng lực học, tinh thông văn võ thao lược, có một lần sử một đoạn gậy mà
bách phu trí dũng khôn đương.
Hai
ông Lang và Lai đang văn ôn võ luyện thì một sự kiện dau đớn thay. Đó là tại quê
nhà hai ông bà Công Tính Vượng dã biến thế, lúc hai ông biết thì than ôi thời
đã vãn tang.
Nói
đến nước nhà lúc này tướng Ô Mã Nhi kiêm cả thủy bộ gồm 15 vạn quân tuyên bố
mượn đường đi đánh Chiêm Thành "Thanh ngôn hạ đao sát phạt Chiêm
Thành" nhưng thực tế tiến đánh xâm lược nước ta. Trước tình hình đó thanh
đại trấn biên thư cấp báo vua trần bèn ngự giá công đường, hội họp văn võ bách
quan nghị định thư sách đánh giặc, rồi vua Trần ra chiếu sắp lễ "Trâu bò,
lợn" thiết lập đàn tràng, cáo lễ thiên địa, khao thưởng ba quân đề binh
phá giặc. Cụ Trần Quốc Tuấn giữ chức
tiết chế, kiêm thủy bộ tả hữu đại binh, cụ Trần Quang Khải tướng tiên phong làm
tiền đạo tướng quân. Tất cả kết thành kì đội, rầm rập lên đường chống giặc cứu
nước.
Vua
lại truyền hịnh trong các châu quận, ai có tài văn thao võ lược, anh hùng hãy
ra giúp nước. Hưởng ứng lời kêu goi đó khắp các hương thôn đều rầm rập rãm lai
ứng tuyển, trao đổi với tướng nhà Trần xin nhập quân đánh giặc, Lang và Lai hai
ông cũng một tiếng Tiên tử báo đền 4 biển, được nhập đầu quân, rồi cùng trạng
nguyên ngày ngày yết bảng chiêu binh, kết quả không quá 5 ngày, muôn dân khắp
nơi kéo đến chỗ hai ông về tài văn võ và trí dũng hơn người. Hai ông cũng được
phong làm chỉ huy quân đội; Lang công được phong: Lai Công vi tả tướng quân,
Lai Công được phong: Lang Công vi hữu đại tướng quân.
Hai
ông (Lang và Lai) được lệnh đem quân đi tuần kiệt các đường, lấy trấn quân
thanh phòng ngừa bất trắc. Hai ông bái tạ Điện tiền, thủ lĩnh bộ binh mã tuần
phòng hai miền đông bắc, chỉ trong 1 ngày hai ông (Lang, Lai) đã đề binh tới
miền cổ Hiệu Hồng Châu sau cải thành Dương Tuyền Nam Sách phủ đến Tiên Minh
huyện vào trang Tiên Đôi Ngoại, hội họp tướng tốt trù binh tạo thực hai ông lại
đi tham quan thị sát, thấy nơi đây (Trong ngoài) trên bến dưới thuyền, có nhiều
gò đống, là nơi sơn thủy hữu anh hồi, các gò đống lại ở thế long hổ hoàn bào,
thủy tỉnh tiện nghi, một nơi thắng cảnh phong quang, liền tổ chức quân và dân
kiến thiết một đồn để tiện đường vãng lai, kỳ giangg thương nghị lúc đầu nhân
dân đều cả sợ, làm lên xin khất, hai ông (Lang, Lai) lại hiểu rụ và sắm sửa đặt
bầy cơm nước cho mời các phụ lão nhân dân làng trang ngoại đến ăn uống vui vẻ.
Thấy vậy dân làng vô cùng mừng rỡ ra sức ủng hộ, thanh niên trai tráng trong
làng nô lức rủ nhau tòng quân nhập ngũ. Các phụ lão hăng hái kêu gọi con cháu
trẻ già gái trai thi nhau xây đồn đắp lũy, phụ nữ tải lương tiếp tế, các phụ
lão còn xin hai ông (Lang, Lai) đồn này bây giờ là nơi trù binh phòng ngự, sau
để làm nơi cúng tế. Hai ông nhận lời và để cho nhân dân khu bản, còn chọn trong bản khu 10 thanh niên
cường tráng làm gia thần để trông nom đồn miếu hai ông (Lang, Lai) còn nói với
khu các ngươi rất hậu, cùng với anh em ta cũng rất hậu, anh em ta tuy mạnh ức
niên về sau, nên các ngươi cố gắng duy trì tình cảm mà phụng sự. Nói xong hai
ông liền cho nhân dân bản khu Tiên Đôi Ngoại hoàng kim hai hộp, để về sau trùng
tu miếu điện phải sở cập trúc uỷ, sở cập lập uỷ, lời ủy thác đó được dán ở
ngoài khu trang ngoại để mọi ngời được rõ, nhân dân và phụ lão rất hoan hỷ và
nhận lời chúc phó. Thế rồi hai ông (Lang và Lai ) lại phải tiếp chiếu thư biết
tin Nguyên binh đã phạm đến kinh sư. Ngọc hoàng đã rời thành, ngự xuống một
thuyền nhỏ lãnh nơi biển động. Còn
quân ta một bộ phận vẫn bám sát giặc, cần thiết phải diệt đồn Vạn Kiếp, tiết
chế cùng các vị tướng tốt bàn bạc lập kế hoạch tiến công. Kịp thời hai ông
(Lang, Lai) cùng bàn bạc và tiến công ngay đồn vạn kiếp. Quân Nguyên bị đánh
bất ngờ nên cả vỡ, thua to bỏ chạy tan tác. Tiết chế lại cho quân ta đóng một
đồn tại phả lại để vây hãm các đồn và chặn đường giặc chạy.
Quân
giặc đại bại, đến đường cùng tính đường tháo chạy, biết tình hình giặc rút theo
đường thủy, tiết chế cho mở trận đồ trên sông Bạch Đằng đặt cọc hai ông được
lệnh vu tam Giang Hải khẩu phục binh, còn Ô Mã Nhi cố thủ một đồn gần kiếp bạc,
bị quân ta vây hãm khồn đốn, chúng phải lẻn theo đường hẻm, xuống thuyền chạy
ra phía Bạch Đằng tưởng rút được thoát, nào ngờ Ô Mã Nhi vừa tới Bạch Đằng
Giang lại bị một thuyền nhỏ của ta chặn ra đánh, chúng tưởng thắng nhưng chúng đã
lọt vào trận đồ bãi cọc giữa sông, bỗng pháo hiệu của ta phát hỏa rung trời nở
đất, quân ta từ các ngả xông tới tiến công 2 bên bờ bắn vào thuyền giặc như mưa
thuyền bè của quân ta từ các điểm mai phục tiến ra vây hãm quân giặc, Ô mã Nhi
không còn biết xoay sở ra sao, tàu thuyền của chúng phần thì bị đắm, bị xô vào bãi
cọc, đương lúc thời chiều chương dương xuống gấp quân giặc bị chết đuối, bị
chém, bị giết, máu chảy thành sông, xác giặc và tàu thuyền đắm chìm xếp thành
núi (Huyết khả huyền hành thi như sơn tích). Tướng Ô Mã Nhi bị bắt sống, thế là
cuộc chiến quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của ta hoàn toàn đại thắng, quân
Nguyên đại bại không còn hi vọng, từ nay bất khả xâm phạm nước ta, nước nhà
hoàn toàn giải phóng, không còn một bóng quân thù, cả nước thanh bình, giang
sơn thu về một mối.
Sau khi thắng Bạch Đằng, vào mùa xuân trung tuần
tháng 3, cả nước vui mừng rộn tiếng âu ca, chào mừng sứ giả ban chiếu vấn an.
Nguyên binh đã sớm bình chinh, cả nước phụng chiếu hồi dân. Quân tướng ca khúc
khải hoàn, nhà vua mừng vui triển khai Khánh hạ, Gia phong tướng sĩ đẳng cấp có
sai. Hai ông (Lang, Lai) cũng được phụng chiếu khải hoàn, kinh sư truyền phương
xuất nhập lục đầu giang. Đến trung lưu gặp phải phong ba bão táp ập tới. Hốt
nhiên trời đất hối minh, tối tăm mù mịt, ngày tựa như đêm, sấm sét xé trời, mưa
to gió lớn, đá bay cát bụi, một dải mây tía từ trời thẳng xuống cuốn mất cả
thuyền và hai ông. Theo chiều gió tấp ra mãi biển xanh, lúc ổn lại trời quang
mây tạnh, sóng vỗ đều đều, cồn cát nổi lên, rồng, rắn hiện ra, còn hai ông cũng
chẳng thấy đâu. Hai ông (Lang, Lai) đã hóa vào ngày 12 tháng 2 năm 1280.
I/ SẮC NHÀ TRẦN PHONG.
1.
Phong cho Công Tính Lang: Nguyên tự thần hiệu. Nhất phong lang công Đại vương.
Tặng phong hùng kiệt, quả quyết, diệu mưu, tá dũng văn võ toàn tài, hoa thắng
cảnh, quang thắng toàn, thượng đẳng thần.
2.
Phong cho Công Tính Lai: Nhất phong lai công đại vương. tặng phong đương cảnh
thành hoàng linh ứng thanh khiết, hộ quốc tỷ dân. Ngưng hưu trung đẳng thần, rữ
quốc đồng hưu Vĩnh Vị Hằng.
3.Tặng
cho Tiên Đôi Ngoại trang;
Nhị
khâm tai(tặng) chuẩn hứa(cho) Tiên Đôi Ngoại trang: Nghinh mỹ tự hồi dân tặng
cho lập miếu phụng sự.
4.
Đối với các triều đại kế thế: Khước khuyết tự thử(Từ nay về sau) giai niên tứ
linh ứng. Mãi mãi đời đời các bậc đế vương đều phải kế nhau gia phong cho hai
mỹ tự (Nhị vị đại vương Lang Và Lai).
II/
THỜI HẬU LÊ PHONG:
Thời
Lê Thái Tổ (húy là Lê ái Châu) thiệu thiên phủ, Nam sơn vương, khởi nghĩa từ
núi Nam Sơn. Tam thiên hổ nữ sào trừ, hồ thị đại đinh ngô nhậm kỳ đảo các chư
từ kinh. Nhị vị riệc hựu hưởng ứng, âm phương ấp đắc thiên hạ. Lê Thái Tổ gia
phong cho hai ông mỹ tự:
1.
Phong cho ông Công Tính Lang
Nhất
phong rực vân tế thế (Mãi mãi giúp đời) Hiển ứng linh phù Công Tính Lang đại
vương.
2.
Nhất phong đương cảnh thành hoàng hiển hựu trợ thuận, Công Tính Lai đại vương.
3.
Sắc cấp cho Tiên Đôi Ngoại khu:
+
Tiên Đôi Ngoại khu trùng tu miếu điện rỹ phụng sự kì hiển hựu tai.
+
Nhất phung khai sinh, hóa các tịch (Sinh con đẻ cái) nhất thiết cấm không được
đặt tên con trùng với tên của hai vị đại vương. Chuẩn hứa cho Tiên Đôi Ngoại
trang tự chí phụng thờ.
4. +
Ngày sinh: Sơ thập nhất, thập nhất ngoạt (Ngày 10 tháng 11 hàng năm)
+ Chính đảo lễ rụng: Trên chay dưới mặn: Tức là thượng lễ chay.
- Hạ
lễ mặn có: (Kê, suy, xôi, gà, rượu, lợn, trâu, bò...) : (Thiết sinh tư hình)
-
Được mở các trò chơi xướng ca ru hý, khang trù kích nhưỡng.
- Vui
chơi, chọi gà, đấu vật...
5.
Ngày mất: (Ngày hóa).
Mất ngày: nhập nhị nhật. Sơ nhị ngoạt.
+ Tức
ngày 12 tháng hàng năm.
+
Chính đảo:
-
Thượng rung trai bạt.
- Cấm
vui chơi ca hát.
NGƯỜI
VIẾT THẦN PHẢ.
+
Hồng phúc nguyên niên, mạnh xuân cát nhật, hần lâm lễ bộ viện đông các đại học
sĩ Nguyễn Bính phụng bút.
+
Vĩnh hựu lục niên, trung xuân cát nhật, nội các bộ lại tái tuân cựu thế sao
lại.
+
Khải Định thập niên, Ất sửu niên, tháng 3 sao lại.
(Được sao lại 20 tháng 12 năm 2013 - xã Đoàn lập)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét