TÌM MỘ CỤ TRẠNG
TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN MỘ PHẦN CỤ TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Cụ Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (viết tắt Cụ Trạng) sinh năm Tân Hợi
đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện
Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Cụ Trạng mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi.
Trong sự nghiệp vì nước vì dân của
mình, Cụ Trạng đã
để lại cho các thế hệ mai sau những tác phẩm văn học có giá trị như: Tập thơ Bạch
Vân, Trình quốc công Bạch vân thi tập, Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập
hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với
hàng trăm bài thơ chữ Nôm)…. Người còn
chủ trương xây chùa tôn thờ các danh nhân, bắc cầu giúp dân…
Nhưng có lẽ nổi tiếng hơn cả là những câu Sấm mà Cụ Trạng
đã để lại. Cụ Trạng tinh thông về thuật số, tính theo
Thái Ất Thần Kinh, tiên đoán được biến cố lịch sử xảy ra sau 400 năm; lời tiên
tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. Cụ được nhân dân truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một
của Việt Nam. Nhiều câu Sấm của cụ vẫn chưa có lời giải. Nhiều đời vua, chúa thời
đó đã theo lời tiên tri của Cụ Trạng mà tránh được binh đao và mở mang bờ cõi
Việt như ngày nay. Trong cuộc đời Cụ Trạng vẫn còn nhiều bí ẩn mà sau khi Cụ mất
đến nay vẫn chưa có lời giải. Mộ phần của cụ Trạng đã được nhiều nhà sử học,
khoa học, nghiên cứu tâm linh… các thế hệ đi sau luôn mong mỏi kiếm tìm để việc
thờ cúng Cụ Trạng theo đúng nghĩa của nó; nhưng đến nay chưa có kết quả. Phải
chăng Cụ Trạng không để lại manh mối để tìm mộ phần của mình?
Lý do để Tôi có ý
định đi tìm mộ Cụ Trạng là hoàn toàn do ngẫu nhiên. Trong một lần về quê giỗ Tổ
năm 2007 (Tôi thuộc giòng họ Đỗ Trung ở
làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng), lần đầu tiên Tôi có vinh dự được
đến Đền cụ Trạng ở xã Lý học để thắp hương. Tại đây, qua tiểu sử về Cụ Trạng,
Tôi cảm thấy tự hào về vùng đất quê hương mình đã sản sinh ra một con người hào
kiệt. Tên tuổi của Cụ Trạng đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, một nước lớn
như Trung Quốc thời bấy giờ đã tôn trọng và gọi Cụ Trạng là “An Nam lý số hữu
Trình Tuyền”.
Năm 2014, do nhân duyên Tôi được một người
bạn tên Phạm Thắng quê ở xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đưa về quê
chơi. Khi về vùng quê này, Tôi được nghe 03
câu Sấm của Cụ Trạng lưu truyền trong nhân dân:
1.
"Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về";
2. “Kinh Lương chùa Đót Còn sót một
ngôi
Huyệt tại Thiên Lôi Anh hùng kế
thế”;
Đồng thời, được đi tham quan một số danh thắng trong vùng:
khu Mả Nghè nơi có mộ phần của Tiến sỹ Thượng thư Nhữ Văn Lan, cùng phu nhân là Vương Thị Nhuận
(ông, bà Ngoại của Cụ Trạng) và con
gái là Nhữ Thị Thục (Mẹ của cụ Trạng); mộ Tổ của giòng họ Nhữ; Chùa Đót, Đình Vận; khu vực
cánh đồng Thiên Lôi (dân trong vùng đặt
tên từ thời xa xưa). Từ đó, Tôi nảy sinh tâm nguyện là đi tìm mộ Cụ Trạng.
Về 03 câu Sấm truyền trên, Tôi chưa có nguồn tư
liệu chuẩn để đối chứng có phải là câu Sấm của Cụ Trạng không. Các câu Sấm này
được lưu truyền trong nhân dân và được phản ánh qua các phương tiện thông tin
đại chúng cho đến ngày nay.
"Bao
giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về"
Năm
1991, Nhà nước xây dựng cây cầu nối sông Hàn từ quê Vĩnh Bảo của Cụ Trạng sang
Tiên Lãng; cũng năm đó, huyện Tiên Lãng có công trình đào kênh thuỷ lợi chia
huyện thành 2 phần; sau hơn 400 năm câu Sấm này đã ứng nghiệm.
“Kinh Lương chùa Đót Còn sót một
ngôi
Huyệt tại Thiên Lôi Anh hùng kế thế”
Được đăng trên báo mạng
Trí Việt trong bài Về vùng đất địa linh ở Hải Phòng
ngày 06/9/2014 của 2 tác giả Sầm Thắng – Phạm Thắng.
Trong
Cuốn Văn Bia Tiên Lãng do PGS.TS Đỗ Thị Hảo, Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội cùng các cộng sự đã
tiến hành sưu tầm, biên dịch, chú giải vào năm 2008, tấm bia cổ nhất của Tiên
Lãng chính là tấm bia ở chùa Đót Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi được
dựng vào đời Vua Lê Thánh Tông Niên hiệu Hồng Đức thứ 22 vào năm 1491, trong đó ghi
nhận Chùa Đót Sơn được xây dựng trong những năm 505-543 ở thời kỳ nước ta chịu
sự đô hộ của nhà Lương Trung Quốc. Ngày
nay, Chùa Đót Sơn (tên xưa là chùa Non Đông Tự; trong
dân gian thường gọi là chùa Đót) nằm ở xã Cấp Tiến Huyện Tiên Lãng, Hải
Phòng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp đầu những năm 1950, chùa bị chiến
tranh tàn phá chỉ còn lại 01 gian bếp. nhân dân đã sửa chữa lại gian bếp, đưa
các đồ thờ cúng còn sót lại của chùa vào để thờ cúng cho đến ngày nay.
Câu
Sấm “Táng tại ao Dương”
Được đăng trên trang web Nguyễn Đình Minh (hội viên Hội nhà văn Việt Nam) trích đoạn
viết: “Theo những truyền thuyết dân gian mà Ông
Lương cao Rính (Hội văn nghệ dân gian Hải
Phòng) sưu tầm trên bản gốc hiện được tôi trực tiếp lưu giữ có chuyện kể về
những phút cuối đời của Cụ Trạng. Theo đó, vào phút lâm chung cụ Trạng gọi người
con cả vào và viết lên lòng bàn tay 4 chữ “Táng tại Ao Dương”. Khi Cụ mất gia
đình và học trò theo di huấn mang thi thể Cụ xuống thuyền đưa đi chôn cất tại địa
điểm mà Cụ căn dặn. Ngày hôm sau tại Trung Am có tổ chức lễ viếng Cụ linh
đình và quan tài giả được khiêng đi chôn cất công khai. mộ phần này chỉ là mộ
phần giả, lâu ngày thiên nhiên bào mòn rồi xóa sạch dấu tích”.
Đến nay (sau 430 năm), mộ của Cụ Trạng vẫn là một bí ẩn; địa danh Ao
Dương ở đâu vẫn chưa có lời giải. Theo
Tôi, 03 câu Sấm trên chính là những dấu tích Cụ
Trạng đã để lại cho thế hệ sau biết cách thức để tìm mộ của mình.
Tôi cũng là người nghiên cứu về Tâm linh theo
trường phái Mai Hoa Dịch Số của Cụ Thiệu Khang Tiết, nên cũng mạo muội đưa ra
giả thiết của mình về nơi Cụ Trạng đang yên nghỉ, với mong muốn làm sáng tỏ
được phần nào về giả thiết của mình về mộ phần của Cụ Trạng.
II. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ MỘ CỤ TRẠNG
1.
Truyền thống dân tộc.
Dân tộc Việt hàng ngàn đời nay có truyền
thống chôn cất người quá cố trong lòng đất (theo Hán Việt gọi là địa táng) để
các thế hệ con cháu thờ cúng nhớ về tiên, tổ; khu mộ nổi tiếng nhất nước đó
chính là mộ của Vua hùng ở tỉnh Phú Thọ. Do đó, mộ Cụ Trạng cũng không nằm
ngoài truyền thống đó. Tôi loại trừ các hình thức an táng khác như hỏa táng,
thủy táng của các dân tộc khác.
2.
Do trình độ uyên thâm về lý học, số học của cụ Trạng.
* Cụ Trạng đã nhìn thấy trước sau khi mình
chết sẽ có kẻ phá mộ của mình nên Cụ Trạng đã có những bước chuẩn bị trước cho
mộ phần của mình.
+ Trong bài Một
ngày trên quê hương Trạng Trình của tác giả Nguyễn Nhã Tiên trên TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG - SỐ 171 t. 5 năm 2009
trích đoạn viết:
“Tôi đứng
nhìn đền thờ Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm, một ngôi nhà ngói ba gian hai
chái. Lịch sử một ngôi đền thờ cũng thăng trầm cung bậc như đời một con người,
có khác gì đâu. Lần đầu, đền được xây dựng vào năm Trạng mất (1585). Vua nhà
Mạc đã cấp cho làng Trung Am 3000 quan tiền và hàng trăm mẫu ruộng để tạo dựng
đền thờ. Đích thân vua đề chữ "Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ"
lên trên biển gắn trước đền. Nhưng rồi "nương dâu bãi bê" bị đổ nát,
cho đến thời Lê Trung hưng (1735) dân làng mới dựng lại.
Đến thời Minh Mạng (1833) đền Cụ
Trạng lại bị phá. Chuyện phá đền lần này có liên quan đến câu sấm ký của Cụ Trạng
lưu truyền lại: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi vương". Nhà
vua nghe được, tức giận lệnh cho Nguyễn Công Trứ phá đền (Cụ Nguyễn Công Trứ là
một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước thời đó);
việc phá đền thành một giai thoại: khi đền phá ra, Cụ Trứ phát hiện có tấm bia
ghi sẵn: "Minh Mạng thập tứ, thằng Trứ phá đền", mặt sau bia
lại ghi: "Phá đền ta thì không được dự vào hàng nho sĩ". Đọc
xong, Cụ Trứ lạnh toát cả người, bèn tâu vua xin cho được xây đền lại như cũ.
Đền được xây dựng trên chính cái nền của Bạch Vân am ngày xưa”.
Miếu Chùa Sùng Quang địa điểm có thể nghiên cứu (Bia hậu phật nhà Mạc)
3.
Điều kiện, hoàn cảnh thời bấy giờ
* Trong giới tâm linh nhất là những người
tài, giỏi như Cụ Trạng thì không bao giờ nói ra nơi cụ thể đặt mộ phần của
mình. Thông thường, họ để lại ít nhất 03 địa danh cố định để những ai có nhân
duyên hiểu được đúng ý thì mới có thể xác định được vị trí nơi đặt mộ.
* Vị trí mộ phải ở những chỗ ổn định,
không bị thay đổi theo thời gian và không ai có thể xâm phạm được.
+ Người Việt có truyền thống thờ cúng thần
linh, thờ cúng tổ tiên… đó là những chỗ linh thiêng trong tâm thức người Việt
mà rất ít kẻ giám xâm phạm. Cụ thể như đình, đền, miếu…bởi thế, trải qua ngàn
năm trên khắp các vùng đất bắc bộ hiện nay còn tồn tại hàng chục ngàn ngôi
Đình, đền, miếu…
-
Đền thờ là nơi để thờ cúng một vị thần hoặc một
danh nhân quá cố. Nhiều đền thờ dành cho các thần thánh trong tôn giáo hoặc tín
ngưỡng địa phương.
- Đình
là nơi thờ cúng Thành Hoàng (người có
công tạo dựng nên khu dân cư đó) trong dân gian thường gọi là Thánh.
- Miếu
cũng là nơi để thờ cúng
nhưng nhỏ hơn đền, đình. Miếu thường được xây
dựng ở nơi xa làng, yên tĩnh. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở
tên gọi của miếu. Với
miếu thì ai có điều kiện cũng có thể tự xây dựng được, chọn địa điểm và thờ
cúng đối tượng gì là do người có công xây dựng đặt ra.
+ Về nguyên tắc tâm linh: đình, đền, miếu
ở những vị trí đất đẹp, bên dưới không có cốt, trừ trường hợp đặc biệt.
* Thời của
Cụ Trạng, trên vùng đất Cụ sinh sống đã có chùa, đình và đền để thờ cúng thần,
thánh và được nhân dân rất sùng tín thờ cúng; trong chùa thường có khu đất
riêng dành để táng các nhà sư tiền bối (không táng người ngoài); đình và đền là
nơi thờ cúng chung của cộng đồng dân cư, nếu có làm gì ở những khu vực đó thì rất
nhiều người biết và động chạm đến tâm linh. Do đó, Cụ Trạng không bao giờ chọn những
nơi có đất là đền, đình để làm nơi đặt mộ phần của mình.
* Chỉ còn
một giả thiết là mộ thật của Cụ Trạng đặt ở những nơi có miếu vì:
+ Thời Cụ
Trạng còn sống (thế kỷ 16) vùng đất
Vĩnh Bảo, Tiên Lãng bấy giờ là vùng đất ven biển hoang vu, dân cư thưa thớt, chủ
yếu dân từ nhiều vùng, miền khác nhau về đây khai hoang lấn biển.
+ Miếu có
xây dựng ở vùng này thì cũng không ai biết, đảm bảo được tính bí mật, an toàn; đến
khi biết thì cũng chỉ biết là nơi thờ cúng thôi, nhân dân quanh vùng khi có điều
kiện ra đây để thờ cúng (trừ những người
trong cuộc có mục đích từ trước biết mà không ai nói ra).
+ Nếu lấy
miếu làm nơi đặt mộ thì thật tuyệt hảo; theo suy luận của Tôi, ngay từ thời Cụ
còn sống, có thể Cụ đã chọn trước vị trí đất phù hợp với mệnh của Cụ (mệnh của Cụ là Khôn thổ), đồng thời cho
xây dựng miếu trước; để khi mất những người tâm phúc với Cụ đưa thi hài của cụ
vào đó; không làm ảnh hưởng đến cảnh quan và môi trường xung quanh và không sợ
người đời quấy nhiễu; đồng thời, nhân dân vẫn đến thắp hương thờ cúng. Do đó,
Tôi thiên về giả thiết này.
4. Đi tìm những địa danh để xác định
vị trí đặt mộ Cụ Trạng.
Những nhà tâm linh xưa cho rằng có
ba yếu tố tác động cuộc sống con người đó là: THIÊN - ĐỊA - NHÂN.
THIÊN là những gì của tự nhiên (thời
tiết, khí hậu, các biến đổi khác của trái đất…) mà con người biết và chưa biết,
gán ghép cho THIÊN sức mạnh tuyệt đối, vô hình (tên gọi khác là TRỜI); ĐỊA là
đất; NHÂN là người. Ba yếu tố này mà hòa hợp thì cuộc sống của con người ở thế
giới thực và tâm linh đều tốt. Do đó, từ xưa đến nay những nhà tâm linh và
nhiều người bình thường khác đều áp dụng, tuân theo ba yếu tố này đối với người
đang sống cũng như những người đã khuất.
Tôi cũng áp dụng 03 yếu tố này để
tìm mộ Cụ Trạng.
a) Vị trí thứ nhất (THIÊN).
“Kinh
Lương chùa Đót Còn sót một ngôi
Huyệt
tại Thiên Lôi Anh hùng kế thế”
Thiên
văn học phương đông, từ xa xưa đã biết dùng các
ngôi sao trên trời để xác định phương hướng; xem
Bắc cực là trung tâm của vũ trụ, là nơi ở của Thần; ở đó có chùm sao Tiểu Hùng, trong đó có Sao Bắc Cực là ngôi sao sáng nhất, đứng
yên tương đối duy nhất so với các ngôi sao khác (tên khác là Sao Bắc Thần). Từ đó, các nhà Thiên
văn học phương đông qui ước Sao Bắc Cực là hướng chính Bắc
và qui định các hướng còn lại như ngày nay (đông,
tây, nam, bắc).
Phân tích câu: Kinh Lương chùa Đót còn sót một ngôi
Trong các văn bia cổ của huyện
Trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp (năm
1946 - 1954) Chùa Đót ở Kinh Lương bị tàn phá chỉ còn sót lại duy nhất 01 gian
bếp; nhân dân đã chuyển đồ thờ cúng còn sót lại vào gian bếp này để thờ cúng từ
đó cho đến ngày nay; câu Sấm của Cụ Trạng sau hơn 400 năm đã ứng nghiệm.
Tượng đài cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Theo nghĩa bóng “một
ngôi” ở đây theo Tôi hiểu tương ứng với một ngôi sao. Theo quan niệm người
xưa, thì Thần ở hướng Bắc. Ở hướng Bắc có một ngôi sao đứng yên nhất trên bầu trời đó là Sao Bắc Cực.
Người xưa đã biết dùng ngôi sao này để xác định phương hướng trong đi lại. Ở Việt
Nam, chùa là nơi thờ Đức phật Thích Ca Mô Ni, thờ cúng ở chùa được coi là thờ
thần. Chùa Đót cũng là một nơi như thế;
có nghĩa là vị trí Chùa Đót tương ứng với
ngôi Sao Bắc Cực; theo suy luận cá nhân: Vị trí của Chùa Đót chính là mốc
ở hướng chính Bắc so với vị trí khu vực
đặt mộ của Cụ Trạng.
Sau khi từ quan, Cụ Trạng về quê ở ẩn, xây quán Trung Tân ở bến Trung Lệ
bên bờ Tuyết Giang, dựng Bạch Vân Am và lấy hiệu Bạch
Vân cư sĩ mở trường dạy
học, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Vị trí Bạch Vân Am xưa thì
nay chính là nơi lập đền thờ Cụ Trạng tại xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi
đã dịch
một tài liệu sưu
tầm, được cho là bút tích của Cụ Trạng: “Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi:
Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trả lời rằng: Trung là đạo
trung, giữ được toàn thiện là trung, trái lại thì không phải là trung. Còn Tân
là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến
mê... Xin ghi vào đá để lưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà
thứ ba (1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông
các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn”.
Cụ Trạng đã gắn bó với
Bạch Vân Am cho đến hết cuộc đời của mình. Đây là địa điểm Cụ Trạng đã lựa
chọn, thể hiện cái tâm, cái tầm của Cụ. Sau khi Cụ Trạng mất (năm 1585) Vua nhà Mạc ghi nhận công ơn
của Cụ Trạng nên đã cấp cho làng Trung Am 3000 quan tiền và hàng trăm mẫu ruộng
để tạo dựng đền thờ trên nền đất Bạch Vân Am. Đích thân vua ban chữ đề
"Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ" lên trên biển gắn trước đền.
ông thật xứng đáng với câu đối đã ghi
ở đền thờ tại Bạch Vân Am: "Kế
tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng - Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu" (Nối được cái đã
đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng - Tìm hiểu việc đã qua, dự
đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu).
Bạch Vân Am chính là nơi để Cụ Trạng thể hiện những gì
là cái Tôi của Mình. Bạch Vân Am ứng với con người Cụ. Từ những luận điểm này, Tôi
lấy vị trí đền thờ Cụ Trạng ngày nay tương ứng với chữ “NHÂN”là mốc thứ 2 để xác định vị trí mộ của Cụ Trạng. Trong giới
tâm linh, có nhiều trường phái khác nhau, nhìn nhận thế giới hiện tại dưới nhiều
góc độ khác nhau. Do đó, Tôi đưa quan điểm của mình với mong muốn để học hỏi và
trao đổi.
Đền long bì (Đền Bì)
Đền Canh Sơn (Đền Bì)
Là hai địa điểm không thể bỏ qua trong nghiên cứu này
Phân tích câu: Huyệt
tại Thiên Lôi Anh hùng kế thế
Tạm giải nghĩa câu này theo nghĩa đen có nghĩa là mộ ở
cánh đồng Thiên Lôi, nếu tìm được mộ sẽ có anh hùng nối tiếp. Tại xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng (ngày nay) có cánh
đồng Thiên Lôi, cánh đồng này hay bị sét đánh; dân quanh vùng gọi là cánh đồng
Thiên Lôi và không ai biết có tên gọi đó từ bao giờ; vị trí cánh đồng này ở
giữa Chùa Đót và Bạch Vân Am xưa (nơi Cụ Trạng ở).
Nếu như mộ của Cụ Trạng ở cánh đồng
Thiên Lôi như lời Sấm thì đơn giản quá, không đúng với con người cụ, không đúng
với “Thái Ất Thần Kinh”; về tâm linh, không ai chọn chỗ đặt mộ cho mình ở nhưng
nơi hay bị sét đánh; trong dân gian có câu “Trời đánh, Thánh vật” để chỉ những
người ngỗ nghịch. Do đó, Tôi loại trừ khả năng mộ của Cụ Trạng nằm ở khu vực
này.
Tuy nhiên, theo các nhà tâm linh học từ Thiên Lôi lại
mang hàm ý khác. Theo truyền thuyết, Thiên Lôi là một ông quan trên Thiên đình (trên trời) chuyên cai quản về sấm, sét.
Thiên Lôi đồng nghĩa với hướng chính Đông (hướng
chấn thuộc về Mộc); gắn với một ngôi sao chủ của hướng đông đó là sao Mộc
Tinh. Theo Tôi hiểu: Nếu đứng ở cánh đồng Thiên Lôi thì vị trí Huyệt (mộ) của Cụ Trạng nằm về phía Đông của
cánh đồng (phía mặt trời mọc). Ở thời
của Cụ Trạng, vùng đất phía Đông có tên gọi là Dương Áo. Cánh đồng Thiên Lôi và
Dương áo là hai địa danh rộng lớn lại chưa có mốc nào làm chuẩn nên chưa thể
xác định rõ rằng tọa độ để làm căn cứ xác định khu vực nghi có mộ Cụ Trạng.
Như phần đầu đã nêu, trước khi Cụ Trạng mất, Cụ đã để
lại bốn chữ:
Đây là câu rất
thực, nhưng cũng là câu rất hư, ai muốn hiểu như thế nào là tùy tâm, thực là Ao
Dương, mà hư cũng là Ao Dương. Từ khi Cụ Trạng mất đến nay, chưa ai tìm được địa danh Ao Dương nằm ở đâu. Theo Tôi nghĩ: Câu
này Cụ Trạng đã dùng lối chơi chữ để thế hệ sau theo đó mà tìm vì:
Nếu đọc ngược lại câu của Cụ Trạng thì ta được Dương Ao
hay Dương Áo. Ngược dòng thời gian, địa danh Dương Áo có từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII); tên một đồn binh ở
ven biển do nhà Trần lập nên để bảo về biển, đảo của đất Việt (trước khi Cụ Trạng ra đời); địa danh
này tồn tại đến ngày nay và cũng không thay đổi tên gọi (thời Cụ Trạng, Dương Áo nằm ở cực Đông giáp biển). Địa danh Dương
Áo nay nằm ở xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Trước khi mất, Cụ Trạng đã cho biết địa danh cuối cùng
Ao Dương đọc lái là Dương Áo (địa danh
này để xác định tọa độ khu vực mộ của Cụ Trạng). Qua khảo cứu ở huyện Tiên
Lãng, xã Hùng Thắng, thôn Dương Áo có đền thờ Hà Bạc (thờ thần thánh có công dạy dân nghề sông nước). Theo suy luận, từ
Ao Dương trong câu Sấm của Cụ Trạng chỉ nơi có liên quan đến nước, phải chăng ý
Cụ Trạng muốn ám chỉ đền thờ Hà Bạc chính là vị trí để xác định nhân tố cuối
cùng là ĐỊA không? để xác định khu vực
mộ của Cụ Trạng theo những câu Sấm truyền.
Sau khi có đủ 3 yếu tố “THIÊN – ĐỊA – NHÂN” đối chiếu trên bản đồ vệ tinh của WIKIMAPIA.ORG, đánh dấu 3 điểm (chùa Đót – đền thờ Hà Bạc – Bạch
Vân Am) trên bản đồ thì tạo thành một tam giác (hình dưới) thì khu vực trung tâm của tam giác này là ở khu vực giáp ranh giữa xã Tiên Minh và xã Đoàn Lập, huyện Tiên Lãng,
Hải Phòng.
Cần
có khảo sát kỹ khu vực tâm điểm của tam giác “THIÊN - ĐỊA - NHÂN” để tìm hiểu
các ngôi miếu trong khu vực, để từ đó tìm các ngôi miếu thờ ở khu vực này có
nguồn gốc, lịch sử trùng với thời kỳ sinh sống của Cụ Trạng. Ngôi miếu nào có cốt
(xương) thì nhiều khả năng đó là nơi Cụ Trạng yên nghỉ (vì dưới miếu không có cốt, nếu có thì chỉ có Cụ Trạng mới làm được).
Trong một lần về khảo cứu (tháng 06/2015), Tôi đã đến một ngôi miếu (02 hình dưới) có tên: “NAM THÔN CHI MIẾU” nằm ngay phía sau UBND
xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng; qua tìm hiểu được các cụ cao niên
trong xóm cho biết: Ngôi miếu này có từ lâu đời (không rõ năm xây dựng), trước năm 1945 là ngôi miếu to ba gian,
hai trái, làm bằng gỗ lim; từ 1945 – 1954, do chiến tranh miếu bị tàn phá hoàn
toàn; sau năm 1954, có một ông họ Vũ đã bỏ tiền, của dựng lại ngôi miếu như
ngày nay (bé hơn ngôi miếu cũ nhiều); có nhiều ý kiến khác nhau về việc
thờ cúng ở ngôi miếu này, nên chưa rõ ngôi miếu này thờ gì.
Không rõ có phương tiện gì có thể kiểm tra dưới nền đất
của những miếu cần khảo cứu có cốt hay không?
Bài
viết này dựa trên những phỏng đoán, những suy luận cá nhân của Tôi. Tôi mong muốn
được chia sẻ, trao đổi suy nghĩ của mình đến với những người có tâm nguyện tìm
mộ Cụ Trạng; đây mới chỉ là khởi đầu công việc
Tôi đang làm, hy vọng sẽ có nhiều người cùng đồng tâm, hiệp lực, chung sức,
chung lòng đi tìm mộ Cụ Trạng cho dù công việc này như “mò kim đáy biển” thì Tôi
vẫn tiếp tục kiếm tìm.
Chỉ khi tìm được mộ Cụ Trạng thì việc thờ cúng Cụ mới
được đúng với ý nghĩa đầy đủ, trọn vẹn đối với với Bậc danh nhân văn hóa, nhà
tâm linh số một của Việt Nam “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”.
Đỗ Thái Quang – thôn Cổ Am, huyện Vĩnh bảo, TP Hải Phòng