Thứ Tư, 11 tháng 6, 2014
XÃ ĐOÀN LẬP: Thần tích -Thần sắc làng Tỉnh Lạc xã Đoàn Lập huyệ...
XÃ ĐOÀN LẬP: Thần tích -Thần sắc làng Tỉnh Lạc xã Đoàn Lập huyệ...: THẦN TÍCH XÃ TỈNH LẠC, TỔNG TỬ ĐÔI, HUYỆN TIÊN LÃNG, TỈNH KIẾN AN. Thần phả chép về Tam vị thiên vương triều thời Trưng Vương. Bản ...
Thần tích -Thần sắc làng Tỉnh Lạc xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng thành phố Hải Phòng
THẦN TÍCH
XÃ TỈNH LẠC,
TỔNG TỬ ĐÔI, HUYỆN TIÊN LÃNG, TỈNH KIẾN AN.
Thần phả chép về Tam vị thiên vương triều
thời Trưng Vương.
Bản
dịch Viện Hán Nôm (Ngày 2 tháng 4 năm 2002) -
Được chép lại (Ngày 11 tháng 6 năm 2014 dương
lịch, tại UBND xã Đoàn Lập)
Thủa xưa trời Nam mở vận núi sông chia ngang theo
tới sao Dực, sao Chẩn; Bắc quốc thẳng hướng phân sao Đẩu, sao Ngưu, từ hùng
triều king dương vương nối nghiệp vua cha được mệnh phong là tông đế của các đế
vương nước việt ta. Hoan châu đất đẹp dựng mở kinh đô; Nghia lĩnh núi cao sửa
sang miếu mạo, cha truyền con nối giữ nước đời sau rồi tái thế xưng tên là Lạc
Long quân lấy nàng tiên nữ con vua Động Đình (Hồ). Buổi ấy, mây tốt năm màu nổi
lên trên đỉnh Nghĩa lĩnh sán lạn huy hoàng, nàng Âu Cơ mang thai sinh bọc một
trăm trứng, nở được trăm người con trai, đều là bậc anh hùng tuấn tú siêu vượt
hơn đời, đức độ không ai bì kịp. Tới lúc trưởng thành, vua cha đặt nước thành
15 bộ phong hầu lập tước chia cho cai quản. Bấy giờ Lạc Long Quân bàn với Âu
Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng thuộc loài tiên. Chúng ta sở dĩ có con là do
khí chất của âm dương ngũ hành hợp lại mà thành. Nhưng vì không cùng đồng loại,
thủy hỏa tương khắc, không thể ở chung một chỗ, nên phải tách chúng nó ra"
Thế rồi chia lấy 50 người con theo cha xuống biểm làm thủy thần ngự trị các đầu
sông góc bể; 50 người con cùng mẹ lên non làm sơn thần cai quản đầu núi ngọn
đồi; hễ nghe có việc là tới giúp nhau, không được phế bỏ loại trừ nhau, Cho nên
trước sau nhà Hùng có 100 thần ( Bách thần ) sông núi. Thường thường xuất thế
đầu thai làm con nơi trần thế để giúp nước cứu dân. Nhà nào có phúc tất được
giáng vào.
Lại nói nhà Hùng truyền ngôi đến đời
thứ 18, tức thời Hùng Duệ Vương đóng đô tại Việt trì, bên sông Bạch Hạc. kiến
quốc lại thành phong châu, xưng quốc hiệu Văn Lang, Vương sinh hạ 20 hoàng tử
nhưng đều nối gót nhau vân du tiên cảnh, vua không có con đẻ nối ngôi, nên mới
có câu nói, tới đây là đoạn mạt tạo của nhà Hùng, mà ý trời cũng tới lúc cáo
chung. Thế là nước ta từ đấy bị lệ thuộc triều đại Tây Hán. Bấy giờ ở tại trang
Sóc Sơn, huyện Kim Hoa, phủ Đa Phúc, đạo Kinh Bắc (thời cổ gọi là quận Vũ
Ninh), có một người họ Vương tên húy là Đạo, vợ là Nguyễn Thị Hiển, gia cảnh
bần bách thiếu thốn, lấy việc đốn củi làm nghề, hay làm việc thiện lại chuộng việc
chẩn giúp người nghèo , cả hai vợ chồng là người đôn hậu suốt đời phúc đức,
ngặt một nỗi, tuổi cao mà chưa có con trai nối dõi tông đường khiến ông bà ngày
đêm buồn rầu và thường than thở cùng nhau. Vào một đêm tầm cuối canh ba, ông
vừa thiêm thếp ngủ đi thì đã mơ màng thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, khăn mũ
chỉnh tề: Áo vàng đầu đội mũ hoa, tay cầm cây trượng đỏ tới dứng ngay trước đầu
giường bảo: Nhà ngươi đức dầy trời đã thấu tỏ sau đây sẽ ban cho nhà ngươi một
đứa con trai không nên buồn phiền làm gì" Nói rồi liền đọc một vần thơ:
Thiên đế định ban xuống ba nam.
Ba vị tinh thần ba vị quan.
Lại cùng sinh ra từ một mẹ.
Qua
năm ngọ dậu khoảng bốn năm.
Ngâm xong thì vụt biến cũng vửa lúc
ông tỉnh giấc và ông cũng biết ngay đó là giấc mơ nhưng vẫn nửa tin nửa ngờ sau
lại thấy bà vợ Nguyễn Thị kể cho ông nghe về chiêm bao đêm qua rằng: bà thấy
ngôi sao băng từ trên trời rơi xuống bụng mình. Nghe rồi ông khẳng định đó là
điềm lành. Về sau quả nhiên bà họ Nguyễn có thai, đến ngày 13 tháng 11 năm nhâm
Ngọ bà mơ thấy có một dải mây từ không trung sà phủ xuống nóc nhà suốt ba ngày
mới tan, lại có ánh áng huy hoàng, gió mát hương thơm ngào ngạt trong phòng,
sau đó sinh ra một bọc nở ra 3 người con trai thiên tư thông mẫn, diện mạo khôi
ngô khác hẳn muôn vạn người thường, cha mẹ rất yêu các con nhưng không phân
biệt được đâu là anh đâu là em. Thế rồi vẫn phải đặt cho mỗi người một cái tên:
Con lớn là Hồng công, con thứ hai là Dũng công, con thứ ba là Lược công. Nuôi
dưỡng tam công ngày qua tháng lại thoáng đã lên 7 tuổi. Than ôi sự kiện bất ngờ họa vô đơn chí cha mẹ đều kế
nhau qua đời! Đến năm tam công lên 12 tuổi thiên tư cao mại, học lực tinh thông
học suốt binh thư, sở trường võ nghệ, mỗi khi cầm cây trường côn thì dũng mãnh
sức muôn người không địch. Anh em lừng danh nổi tiếng đương thời Bấy giờ Tô Định
làm thái thú quận Giao Chỉ, triệu tam công ra trình diện vua Hán để được phong
quan tước, chiêu dụ tam phen tứ phen, tam công vẫn không chịu ra, lại còn trốn
lên núi Tản Viên ở đạo Sơn Tây, khi ấy Tô Định đem quân tới xâm lược nước ta,
chúng tàn sát nhân dân không người cứu giúp, mãi đến lúc có người cháu gái
ngoại vua Hùng tên là trưng trắc, là hào kiệt trong đám quần hoa là bậc thánh
thần của thiên hạ, đứng dậy phất cờ nghĩa dấy binh chiến đấu chống giặc ngoại
xâm giữa thời nam nhi thao lược vắng bóng thì một mình người phụ nữ ấy tướng
soái binh thần phát động cầu viện các quốc gia lân cận. Một hôn Trưng Trắc lập
đàn ở cửa sông Hát (Tức xứ Sơn Tây) giết trâu dê mổ lợn mật tế cáo trăm thần
sông núi và thánh Tản Viên: “Trời sinh ra một người làm tôn chúa cho muôn loài
trong trời đất, chốn sở hệ của sinh linh, nơi quan thiết của cỏ cây, trải bao
đời chúa thánh vua thần sáng láng, triều đình hữu đạo, yêu nước thương dân, đức
hóa nhân ban, thiên hạ yên bình, nơi nơi vô sự. Thế mà nay dê chó ngoại bang Tô
Định điên cuồng bạo lực hung tàn sát hại lê dân...Khiến cho thần nhân trời đất
cùng phẫn uất. Thiếp tôi một đứa cháu gái nhỏ xa xủa các vua hùng, nói tới sinh
linh khiến Hoang thiên nhỏ lệ. Nay thấu đau lòng xót thương con nhỏ dấy nghĩa
từ lan, nguyện xin chư vị trăm thần linh thiêng hội đàn chứng giám lời thề này
hãy phù trợ Trưng Nữ đề binh diệt giặc, bảo vệ non sông, cứu giúp nhân dân, phụ
hộ thiếp giành lại đất đai xưa cho tổ quốc cứu sinh linh ra khỏi nước sôi lửa
bỏng và đưa họ tới chốn an lành ăn ngon ngủ yên. Cơ hồ khỏi phụ lòng trời, đền
đáp ân trạch của các bậc tiên vương nơi miếu điện, an ủi vong linh tiên tổ nơi
cửu tuyền” Đọc xong lời chú liền hô xuất âm binh thiên hàng vạn đội, lại truyền
hịnh tới mọi các quận, châu, đạo, trong cả nước các anh hùng hào kiệt, văn võ
song toàn hãy mau chiêu binh tuyển mã, dẫn đưa hương binh nghĩa dũng tới ứng
tuyển. Bấy giờ tam công vừa nghe biết lời hiệu triệu của trưng nữ đã kích động
đến tam can của các nữ thần trong bốn cõi. Ngay ngày hôn ấy họ yết bảng chiêu
binh chưa tới năm ngày mà con số nghĩa binh tụ về lên tới hàng mấy nghìn người.
Tam công cũng làm lời tâu lên {Trưng Bà}rằng: “ Anh em nhà tôi có oán thù với
Tô Định từ lâu, nay nghe tin tướng bà xuất binh, thì đó là sự sắp bày của trời
đất, ngôi thứ đã định, đãcó người làm vua này, thì tất có kẻ làm bề tôi này.
Cho nên anh em nhà tôi muốn được gặp nữ vương, tự nguyện đề binh quyết chiến
diệt giặc một trận tất sẽ dẹp yên được chúng thôi. Nay anh em tôi xin được ban
cấp binh sĩ đi tuần các đạo để gây thanh thế cho quân đội và quan sát địa hình
tiến thủ thế nào sau mới quay về hợp binh cùng quyết chiến đánh một trận là dẹp
xong được giặc” Nghe lời nói ấy, Trưng Trắc đại mừng chiểu theo sở nguyện phong
cho anh em là Đơng lộ chỉ huy sứ Thượng tướng quân, họ trối từ không nhận quan
tước mà chỉ xin ban cho quân thủy bộ đàng hoàng quyết ra đi tuần phòng ở hai
đạo (Hải Dương và Kinh Bắc). Khi hành quân tới địa phận quận Tiên Minh, đạo Hải
Dương thì tầu thuyền quân địch vừa đi tới. Tam công đưa quân tiến về trang Tỉnh
Lạc, cho binh sỹ và nhân dân sở tại thiết lập 5 đồn doanh để đối phó từ sau
lưng địch. Lúc bấy giờ nhân dân địa phương đều rất lo sợ bèn làm lễ bái yết xin
làm thần tử và gia thần cho tam công. Tam công thuận tình cho tuyển lấy 12
tráng đinh ở thôn làm gia thần thủ túc. Bấy giờ đang là lúc bình minh tiết mùa
xuân tháng riêng. Tam công quay lại hội với quân của Bà Trưng kết thành đội ngũ
mở một trận đại phá giặc. Quân giặc đại bại, quân ta chém được chánh tướng của
Tô Định và thu hồi số lượng khí giới lương thực ngựa xe của chúng nhiều vô xiết
kể. Sau khi đại phá đồn giặc, trời đất bỗng nhiên tối rầm, bốn bề gió mây mù
mịt, trong giây lát trời lại quang mây tán, mọi người trông thấy một đám mây
ngũ sắc như cỗ xe tự trên không trung giáng xuống như để nghênh đón ba người,
tam công liền cỡi ngựa cùng mây bay lên không trung về phía đỉnh tản sơn mà
biến, tức tam công đã hóa( Đó lag ngày 13 tháng 12) tướng sỹ khi ấy ai thấy đều
kinh sợ về sự bình dẹp Tô Định tham tàn, lại trả thù cho chồng đòi nợ nước và
lấy lại được 65 thành cho giang sơn nước việt của Trưng nữ, Trưng nữ lên ngôi
vua mở đại yếnđể khao thưởng tướng sỹ theo thứ bậc cao thấp khác nhau, nhân đấy
Trưng Nữ Vương tuyên bố rằng: “Sở dĩ ta dẹp nhanh được giặc Tô Định như thế là
bởi lòng trời thương xót giúp đỡ giáng sinh cho nhiều bậc anh tài”, nên mới sái
người làm sắc chỉ phong tặng cho Bách thần.
Sắc
phong cho tam vị như sau:
- Hồng công thiên quang đại vương,
tặng phong: Đương cảnh thành hoàng Hùng kiệt dũng quyết tế thế an dân anh linh
đại vương.
- Dũng công thiên quang đại vương,
tặng phong: Đương cảnh thành hoàng Hùng kiệt dũng quyết tế thế an dân cảm ứng
đại vương.
- Lược công thiên quang đại vương,
tặng phong: Đương cảnh thành hoàng hùng kiệt dũng quyết tế thế an dân hiển ứng
đại vương.
Chuẩn cho trang Tỉnh Lạc nghinh sắc về
dân lập miếu để thờ tự các ngài.
Hãy tuân mệnh ngay.
Laị nói, từ đó về sau lại luôn hiển
hách linh thiêng. Nên đời đời đế vương đều có sắc phong tăng cho tam vị Đại
Vương.
Tới Triều trần Thái Tông, kinh thành
bị giặc nguyên vây hãm, Trần quốc Tuấn vâng mệnh vua làm lễ cầu đảo tại đền
miếu trăm thần, có qua đền thờ tam vị cũng được ứng nghiệm âm phù nên vua Trần
Thái Tông bao phong mỹ tự là Hiển ứng trợ thuận đại Vương.
Sau thời Lê Thái Tổ khở nghĩa Lam Sơn
diệt nhà Hồ bình giặc Minh khôi phục lại giang sơn, Thái tổ bèn gia phong cho
Tam vị là phổ tế cương nghị anh linh Đại Vương. Sắc chỉ cho nhân dân trang Tỉnh
Lạc trùng tu Miếu điện để phụng thờ các ngài mãi mãi muôn đời vậy thay.
- Vâng lệnh khai các tiết lễ ngày sing
ngày hóa và nghiêm cấm không dùng ba chữ có tên húy của Tam vị: Hồng, Dũng,
Lược; lại chuẩn cho dân Tỉnh Lạc phụng thờ các ngài.
- Chính lệ lễ vào ngày sinh của các
thần ( Ngày 13 tháng 11); ở bàn trên dùng cỗ chay, bàn dưới gồm có thịt Lợn đen
, xôi thịt, bách viên trắng, ca hát.
- Chính lệ lễ ngày hoá của các thần
(Ngày 13 tháng 12); Cỗ bàn tùy nghi.
- Chính lệ kì phước xuân thu nhị kì
vào ngày rằm tháng hai và tháng tám xướng ca diễn trò tùy ý.
Ngày tốt tháng 2 mùa xuân năm Hồng
Phúc thứ nhất (1527) - Hàn lâm viện đông các đại học sĩ (bề tôi) - Nguyễn Bính
vâng soạn.
Ngày tốt mùa thu năm vĩnh hựu thứ 6
(1740) - Nội các lại bộ tôn theo bản cũ (bề tôi) - Nguyễn Hiền vâng lệnh sao
lục.
Ngày 12 tháng 7 năm khải định thứ 9
(1924) dân xã phụng sao bản tại từ đường Nguyễn tướng công (Bính) Đông các đại
học sĩ thuộc xã bằng trù, tổng đồng phú, phủ bĩnh tường, tỉnh vĩnh yên.
(
Được chép lại nguyên trạng theo bản dịch của Viện Hán Nôm )
Đoàn
lập, ngày 11 tháng 6 năm 2014 - Nguyễn Văn Thịnh
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)